* * * * *
Việt Thường
Bài 8
Xin được phép phân tích như sau
Năm 1954, dù có vừa mù vừa điếc thì ai ai cũng biết
rằng uy tín của Hồ, quyền lực của Hồ là tuyệt đối, Lê Duẩn khi đó còn ở dưới
Trường Chinh. Sau Hồ thì uy tín cũng như quyền là thuộc về Võ nguyên Giáp. Vậy
Lê Duẩn có dám chống Hồ và Giáp (chưa kể Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Lê văn
Lương, Hoàng quốc Việt và đàn em tin cẩn nhất của Hồ là Phạm văn Đồng) hay chấp
hành lệnh của Hồ là cài người lại. Cũng có kẻ “tung tin” rằng Lê Duẩn “lén” cài
người lại. Có thể lén cài những kẻ còn vô danh tiểu tốt như mấy anh trốn ra
bưng sau này, nhưng làm sao lén được những cái tên như Nguyễn văn Linh, Nguyễn
văn Sô, Võ chí Công, Nguyễn đức Thuận, Phan văn Đáng, Trần bạch Đằng, La văn
Liếm, Nguyễn Chánh, Trần nam Trung v.v… Bọn chúng toàn là mafia kềnh chẳng lẽ ở
lại mà không có lâu la, tà lọt dám trái lệnh Hồ ở lại làm cái gì, theo “địch”
chăng? Hồ là kẻ chỉ có đi lừa và chơi gác người lại để cho đàn em qua mặt sao?
Những người “buôn tin giả” đó kể rằng tướng Giáp nhận
được thư riêng của Khơ-rút-xốp không trình bộ chính trị nên bị qui chụp, sau
nhờ Hồ nói: “Chú Giáp có đưa cho Bác xem rồi”, nên chuyện của Giáp mới
được yên. Thật là lạ, nếu Hồ đã mất hết quyền mà chỉ một câu “Bác xem rồi”
khiến cả bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ im re, cài số lùi thì “thánh” cũng không hiểu
nổi mấy ông “buôn tin giả”, kiếm chuyện làm quà với đồng bào hải ngoại!!! “Chống
cộng” mà vẫn lấy làm vạn hạnh vì được chụp ảnh chung với Hồ, được ngủ chung với
Hồ, được huân chương của Hồ, là công thần của chế độ mafia cộng sản, là công
dân số một v.v… thì quả rằng cần cân nhắc lại cái “động cơ chống cộng”
là vì dân hay vì cái gì?
Vì sao lại có cái mâu thuẫn ấy? Xin phép được “mao tôn
cương” tý chút. Đó là một mặt vì quyền lợi phe phái va chạm hoặc cũng có thể
nhận thấy chất mafia Việt gian của tập đoàn ngụy quyền cộng sản nên ly khai,
nhưng chưa phản tỉnh (duy nhất có cụ Nguyễn Hộ là có thái độ dứt khoát) vì thế
cũng muốn núp sau cái thây ma của Hồ để ra cái điều “ta yêu nước từ chân tới
tóc”, chứ chưa bao giờ mê anh cả Nga-xô hoăc anh hai Trung cộng.
- Ai đẻ ra mặt trận Liên Việt và xóa sổ mặt trận Việt
Minh, tại sao?
- Ai đẻ ra mặt trận Tổ quốc và xoá sổ mặt trận Liên
Việt, tại sao?
- Ai đẻ ra hiến pháp 1959 (thực ra được biên soạn xong
từ 1958), tại sao?
- Ai đẻ ra “cải cách ruộng đất” rồi lại “sửa sai cải
cách ruộng đất” mà người phát hiện sai lầm thì bị đuổi việc, đàn áp hết cả cuộc
đời, còn kẻ có tội thì cứ lên như diều?
- Ai bỏ bộ tư pháp và khoa luật, rồi cai trị bằng sắc
lệnh, tại sao?
- Ai tuyên bố dù có đốt cả dãy Trường-sơn, dù có 5
năm, 10 năm hay lâu hơn nữa thì cũng phải “xâm lược” bằng được miền Nam Việt
Nam?
- Ai đẻ ra cụm từ “ngụy quân, ngụy quyền” miền Nam? Và
“Mỹ mà xấu”?
- Ai bắt tù đào “hồ suối Hai” để cải “long mạch” rồi
chôn những chiếc răng sâu ở đó (để phát cho thằng con hoang)?
Hàng vạn câu hỏi như vậy, nhưng người ta vẫn giả điếc
giả mù để trích dẫn ông Tây này bà Đầm nọ mà bỏ qua những sự thực họ đã và đang
sống trong đó, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa” như Tây và Đầm.
Đúng như bậc lão thành chống cộng, cụ Phan Khôi, đã
nói: “Bạn đã cố tình tôi biết nói làm sao?” Chẳng làm sao cả, chỉ
cần đừng đọc, đừng nghe, đừng để chúng có cơ hội tung hỏa mù. Muốn thế, những
ngòi bút, những tiếng nói chính nghĩa cần hoạt động nhiều hơn nữa, phổ biến cả
trong cộng đồng người Việt, cả cộng đồng quốc tế những sự thật không thể chối
cãi về Hồ và cái tập đoàn Việt gian “công dân búa liềm” của hắn.
Nhân dân Việt Nam, vì là nạn nhân, rất sáng suốt khi
thấy:
“Ba mươi năm ăn cướp, tướng
Võ không còn Nguyên Giáp,
Cả cuộc đời bán nước, họ Hồ
mất hết trí minh.”
Đến giờ phút này, loại trừ bọn tội phạm ngụy quyền
cộng sản, chỉ có những kẻ “theo đóm ăn tàn”, cơ hội mánh mung hoặc thân phận
“nửa tội phạm nửa nạn nhân” mới cố tình mơ hồ về những tội ác tàn bạo của tên
Việt gian Hồ chí Minh là nguyên nhân đẩy đất nước Việt Nam xuống hạng áp chót
của thế giới!!!
Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ chiếm được
miền Bắc Việt Nam, nhờ vẫn tiếp tục đội lốt của Chính phủ Liên hiệp đa đảng,
nhờ vẫn che đậy bằng ngọn cờ “giải phóng dân tộc” chống thực dân, nên trong và
ngoài Việt Nam còn nhiều người mơ hồ, chưa nhận ra rằng cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc đã bị thoái hóa thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Nhưng khi Hồ công khai vi phạm hiệp định Genève 1954
về Việt Nam; công khai đảo ngược nguyện vọng của toàn dân để thiết lập chế độ
thực dân đỏ núp dưới mỹ tự là “xây dựng chủ nghĩa xã hội”; công khai vũ trang
xâm lược miền Nam Việt Nam thì không có cách nào bào chữa cho dã tâm của Hồ là
hắn bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam để thực hiện chiến lược toàn cầu
của mẫu quốc đỏ.
- Việc Hồ ra lệnh cài nhân sự lại miền Nam Việt Nam
ngay khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam;
- Việc Hồ ra lệnh thực thi chuyên chính ở miền Bắc
Việt Nam nhằm nắm trọn vẹn cả người cả tài sản của miền Bắc Việt Nam để chuẩn
bị chiến tranh bành trướng vào miền Nam.
- Việc Hồ ra nghị quyết về vũ trang xâm lược miền Nam
Việt Nam (nghị quyết 15, tháng 1-1959), rồi tiến hành mở đường vào Nam, đặt
thành bộ tư lệnh “công trường 59” và giao trách nhiệm cho tên sát nhân đồng bào
Ba Làng, là Đồng sĩ Nguyên (tên thật là Nguyễn văn Đổng) làm tư lệnh; đưa người
và vũ khí vào Nam;
- Việc Hồ triệu tập cái gọi là “hội nghị chính trị đặc
biệt” (làm như kiểu Diên Hồng thời Trần) để động viên toàn lực xâm lược miền
Nam Việt Nam; thăm dò dư luận quốc tế;
- Việc Hồ nặn ra cái gọi là “đảng nhân dân cách mạng”
và chỉ định đại tướng ngụy quân Bắc Việt là Nguyễn chí Thanh vào làm bí thư,
cũng như cho một lũ tướng ngụy quân ở Bắc vào như Hoàng văn Thái, Trần văn
Quang, Hoàng Cầm, Trần Độ v.v… Cũng như dựng ra cái chính phủ phường chèo “giải
phóng” mà Lữ Phương sau này được đóng “diễn viên loại 2” (vì mới được là thứ
trưởng cái bộ văn hóa “ở trong bưng”!!!);
- Việc Hồ là kẻ đầu tiên đưa ra sử dụng cụm từ “ngụy
quyền Sài-gòn” là cái chính phủ mà hắn đã thừa nhận tính hợp pháp và tính chính
thống qua văn bản của hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cũng như hắn công khai
lên tiếng đòi lật đổ chính phủ hợp hiến ở miền Nam Việt Nam;
- Việc Hồ dùng những lời khát máu như “dù đốt cả dãy
Trường-sơn” dù “5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa” cũng phải xâm lược bằng được
miền Nam Việt Nam, bất cần hậu quả. Cần nhớ rằng miền Nam Việt Nam vẫn chỉ là
người Việt Nam sinh sống. Không đếm xỉa gì đến hạnh phúc, lợi ích của nhân dân
miền Nam. Không đếm xỉa đến nhân dân miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuối cùng của
Hồ chỉ là mở rộng bờ cõi của thực dân đỏ mà thôi. Dù là óc đất
cũng thấy được diện mạo của Hồ đúng là một thằng đại Việt gian;
- Việc Hồ động viên, đề cao những kẻ ngu muội theo
“con đường của Hồ” để giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam, tàn phá các công
trình kinh tế, xã hội của miền Nam Việt Nam chắc chắc không thể coi đó là hành
động và suy nghĩ của một người Việt Nam bình thường chứ chưa nói đến là kẻ đang
nắm quyền cai trị. Nhân dân và đất nước Việt Nam trong con mắt họ Hồ còn không
bằng cách hành xử của một số thái thú thời Bắc thuộc như Nhâm Diên,Tích Quang
hay lũ quan thực dân Pháp;
- Năm nào Hồ cũng làm vè đầu xuân để cổ động việc xâm
lược miền Nam Việt Nam, kể cả vụ Tết Mậu Thân 1968. Chính Hồ là kẻ viết và đọc
lệnh sau:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền
tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập,
vì tự do
Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho Ngụy nhào
Tiến lên
chiến sỹ, đồng bào
Bắc-Nam sum
họp Xuân nào vui hơn!”
Lập tức bài vè này của Hồ được
tên bút nô Phạm Tuyên phổ nhạc và cho phát ông ổng cả ngày, cả đêm.
Kẻ nào “quả quyết” rằng Hồ
không biết gì về vụ Tết Mậu Thân là “cố tình giả mù”. Hãy xem lại những thước
phim về Hồ chủ tọa các cuộc họp quân sự. Hãy đọc lại hồi ký của các tướng cộng
sản xem. Ngay tướng Trần Độ cũng viết rằng mỗi lần ở Bắc quay lại Nam đều được
Hồ cho ăn cơm. Vậy chẳng lẽ Trần Độ biết mà Hồ vẫn mù tịt chăng? Phải nói rằng,
chỉ có những đứa cố tình chạy tội sát nhân cho Hồ, những đứa “cuồng tín ngu
xuẩn” mới tin lập luận rằng Hồ không biết gì về Tết Mậu Thân. Hồ là một thằng
dám hạ lệnh giết và bỏ tù 5% dân số nông thôn miền Bắc Việt Nam; cho lệnh tiêu
diệt vụ Ba-làng; cho giết hàng vạn đồng bào người Mèo ở Hà-giang (các huyện
Mèo-vạc và Phó-bảng) và bao vụ như “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh”, “chỉnh đốn tổ chức” v.v… thì cái chết của ba ngàn đồng bào ở Huế
mà Hồ gọi là “ngụy” nào có nghĩa lý gì trong hồ sơ diệt chủng của Hồ!!!
- Năm nào Hồ cũng chủ trì hội
nghị quân sự để chỉ ra nhiệm vụ mới cho ngụy quân cộng sản trong thực thi vũ
trang xâm lược miền Nam Việt Nam và khen thưởng, nâng cấp, gắn huân chương, huy
chương cho những tên có nhiều nợ máu với nhân dân miền Nam Việt Nam (có thể đọc
lại các báo cáo của ngụy quyền Hà-nội lúc Hồ chưa bị đưa đi hỏa ngục, chưa bị
phanh thây nhồi bông làm thú triển lãm ở Ba-đình (Hà-nội), cũng như các phim tư
liệu về Hồ và về ngụy quân cộng sản);
- Trước năm 1954 đã đành, ngay
sau khi làm “chủ” miền Bắc Việt Nam, Hồ đã và vẫn tiếp tục cho phá hoại các cơ
sở tôn giáo, nếp sinh hoạt tinh thần của nhân dân miền Bắc Việt Nam;
- Hồ cho hủy hiến pháp
1946, đẻ ra hiến pháp 1959 không thèm trưng cầu dân ý. Hắn hoàn toàn làm ngược
lại tất cả những gì mà hắn viết trong tuyên độc lập và v.v…
Tất cả những sự việc trên
không thể nào đổ tội cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ được.
*****
Sự thật về đấu đá nội bộ mafia
đỏ khi Hồ còn sống
Nhiều người viết về Hồ, cả
trong nước và ngoại quốc (không kể lũ bồi bút cố tình nâng bi) đều mắc sai lầm
cơ bản:
- Sai lầm vì dựa vào cái khung
tài liệu do Hồ tự phịa về mình cùng với các sản phẩm giả mạo do ngụy quyền Hồ
chí Minh sản xuất trong một thời gian lâu dài;
- Sai lầm vì dựa vào những
sách, báo ngoại quốc do người viết bị dẫn dắt bởi quan điểm chính trị hơn là
với tư cách nhà nghiên cứu; nên thiếu trung thực;
- Sai lầm vì nếu có người nào
đó cố làm đúng với tính cách nhà nghiên cứu, biên khảo thì họ lại không bao giờ
hiểu được rằng tập đoàn Hồ chí Minh (từ Hồ cho đến nay là Nông đức Mạnh – thằng
con hoang của Hồ) bao giờ cũng viết một đằng làm một nẻo. Cho nên chỉ nằm trong
chuồng mà nghiên cứu các văn bản, các nghị quyết, và, nếu có tham quan thì theo
kiểu “chuồn chuồn đập nước”, hoàn toàn thiếu vốn thực tế tối thiểu, cho nên
công trình nghiên cứu dù ít hay nhiều, đều lợi cho tập đoàn Việt gian Hồ chí
Minh;
- Sai lầm vì trước khi viết về
Hồ thì đã bị ngộ độc bởi sản phẩm, dư luận do Hồ và đồng bọn cả trong và ngoài
nước tung ra nên bị hồ đồ, không phân biệt được nổi thực và giả. Nhất là những
ai xin gặp trực tiếp Hồ đều phần lớn bị Hồ đóng kịch qua mặt hết. Bản chất của
Hồ cộng với quá trình làm nghề gián điệp lâu năm khiến Hồ lúc nào cũng đóng
kịch, lúc nào cũng giả dối cả những cái không cần thiết; nắm bắt tâm lý đối
tượng rất nhanh và ứng phó cũng rất nhanh. Tính cách của Hồ hệt như mấy tên bán
thuốc giả, lừa con bệnh ở các bến xe, bến tàu v.v…
Đàn em của Hồ sau này, từ Lê
Duẩn trở xuống, đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải,
Nguyễn văn An, thậm chí cả anh hoạn lợn Đỗ Mười cho đến cai đồn điền cao-su có
nợ máu với công nhân là Lê đức Anh, về tầm cỡ so sánh giống hệt con voi con với
con ma-mút già vậy.
Vốn “học đường” của Hồ thì
kém, nhưng Hồ học ở trường đời nhiều; lăn lộn đủ các thứ nghề; bôn ba khắp mọi
chỗ; giao du đủ mọi tầng lớp; chịu ảnh hưởng sách cổ của Tàu nên Hồ biết lúc
chưa có cơ hội cũng dám ăn cứt như Câu Tiễn, và khi đắc thế thì tàn bạo còn hơn
vua Trụ. Thí dụ cụ thể: Trong chiến dịch biên giới 1950, đường đường là chủ
tịch một nước nhưng Hồ hết sức khúm núm với đại tướng Trần Canh của Trung cộng;
cùng đi chung ô-tô, Hồ đội mũ, quấn khăn che râu, ngồi sau thùng xe tải, nhường
cho Trần Canh ngồi ở ca-bin. Trần Canh ăn cơm xong, Hồ xun xoe đưa khăn cho
Trần Canh lau mồm và bưng nước cho Trần Canh uống. Nhưng, đến 1962, giữa lúc
cuộc đấu “xét lại” và “giáo điều” của Nga-xô và Trung cộng đang gay go, biết
mình có giá, nên khi đoàn đại biểu bộ bưu điện và viễn thông của Trung cộng qua
thăm Bắc Việt Nam, do cả bộ và thứ trưởng (là ủy viên trung ương đảng của Trung
cộng) đến phủ chủ tịch chào Hồ, hắn mặc bộ đồ nông dân màu nâu phanh hết khuy
áo, đoàn Trung công đến rồi hắn mới bắt đầu bỏ kéo tỉa lá sâu héo ở vườn đi ra,
rất là “kẻ cả”. Thế rồi, đến lúc ốm nặng, sợ chết, hắn cho mời Lý Ban (thứ
trưởng bộ ngoại thương, dự khuyết trung ương mafia đỏ) đến và năn nỉ: “Tiên
sinh có thể xin với Chu thủ tướng cho tôi sang Trung quốc chữa bệnh được
không?” (vì đối với Việt Nam thì Lý Ban giữ chức vụ như nói trên, nhưng ngoài
ra Lý Ban là phái viên của cộng sản Tàu bên cạnh mafia cộng sản của Hồ). Nên
nhớ Lý Ban còn rất trẻ so với Phạm văn Đồng mà Hồ đội lên là tiên sinh
(chuyện này do Lý Ban viết đăng trên tờ Nhân dân của ngụy quyền Hà-nội).
Khi bị Trương phát Khuê bắt bỏ
tù, hắn viết phản tỉnh xin được làm tay sai cho Khuê trong kế hoạch “Hoa quân
nhập Việt”. Hắn năn nỉ các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần để được gia nhập
Việt Minh và xin về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Khi gặp Trường Chinh, biết
chưa thể lừa Trường Chinh được, hắn nâng bi Trường Chinh “một điều đồng chí tổng
bí thư, hai điều đồng chí tổng bí thư”, và tỏ ra an phận nằm trong hang Pắc-bó
(Cao-bằng) dịch sách, tạc tượng. Nhưng khi đắc thế, hắn lờ cụ Hồ học Lãm như
không hề tồn tại trên đời và là ân nhân của hắn; tìm mọi cách tiêu diệt uy tín
của cụ Nguyễn hải Thần. Còn với Trường Chinh, hắn dùng ngay chữ “bác” của
Trường Chinh để ngồi ở bậc trưởng thượng của Trường Chinh. Rồi bày trò đặt
tên để vừa hạ Trường Chinh vừa sử dụng Trường Chinh. Đó là việc hắn lấy
khẩu hiệu “trương kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” đặt cho cái gọi là “những
người phục vụ của “bác Hồ”, gồm:
Trường: là Trường Chinh;
Kỳ: là Vũ Kỳ,
thư ký “thứ thiệt” của Hồ (vì còn nhiều thư ký chỉ dùng kiểu đối phó với hoàn
cảnh chính trị lúc ấy. Tỷ dụ: dùng một người công giáo để làm “an lòng” đức cha
Lê Hữu Từ; khi qua Pháp dùng cả thạc sỹ sử học Phạm huy Thông để dụ khị người
Việt ở Pháp v.v…);
Kháng: là bảo vệ của Hồ, sau ra làm chỉ huy trưởng bộ tư lệnh cảnh vệ (tức chó
berger hai chân);
Chiến: là bảo vệ kiêm lái xe; kẻ đưa đón cô Nông thị Xuân cho Hồ giải quyết sinh
lý. Sau này giữ chức tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao;
Nhất: là người giữ máy phát điện đài, sau cho làm phó tổng biên tập đài phát
thanh trung ương, kiêm cục trưởng cục truyền hình;
Định: là tên thợ ảnh, sau cho làm chủ tịch hội nhiếp ảnh;
Thắng và Lợi: đều là cần vụ kiêm bảo vệ (đúng nghĩa là bồi).
Hồ thường dùng các trò tiểu
xảo để “hạ bệ” đối phương bằng cách gặp ai cũng đặt tên, hoặc bí danh cho họ. Y
như đặt tên cho “chó” vậy. Kẻ nào chấp nhận cái tên do Hồ đặt cho là tự nhiên
tụt xuống hạ phong, thừa nhận “thân phận khuyển mã, gia nô” của Hồ!!!
Những phần trên cho thấy âm
mưu của Hồ trong việc hạ phe Trường Chinh, nhưng tại sao chỉ hạ mà không tiêu
diệt? Tại sao Hồ lại chọn Lê Duẩn thay ngôi vị của Trường Chinh mà không phải là
Phạm văn Đồng hay Võ nguyên Giáp?
Muốn giải đáp được tất cả
những điều đó cũng như muốn làm sáng tỏ những thêu dệt xung quanh Hồ, sau khi
Hồ chết, tỷ như:
- Phe Lê Duẩn đã thay đổi ngày
giờ chết của họ Hồ; đã sửa “di chúc” của Hồ; đã “làm sai nguyện vọng” của Hồ là
hắn muốn được hỏa thiêu chứ không phải xây lăng;
- Phe Lê Duẩn “hiếu chiến” và
là kẻ chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát ở Huế (Tết Mậu Thân), về xâm lăng miền
Nam Việt Nam, về gây chiến ở Cam-bốt, mà trước đó thì thân Trung cộng nên đã đẻ
ra cái gọi là nghị quyết 9 (khóa 3) tức là “Mao-ít” mà trong hội nghị Lê đức
Thọ đã “lấn át” không cho Hồ phát biểu;
- Và có đúng như Lữ Phương
viết rằng: “… nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực
bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có
nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng
đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất”.
Trước khi bàn về những điều
nêu trên, tôi xin được lưu ý với bạn đọc rằng:
- Hồ là con người ích kỷ
và thực dụng tàn bạo. Hắn là loại người mà tình cảm là món hàng xa
xỉ. Thí dụ: Năm 1925, mới bước vào hoạt động thì đã bán cụ Phan Bội Châu cho
thực dân Pháp, vừa triệt người yêu nước chân chính, vừa có tiền ăn nhậu và lập
tổ chức Việt gian phục vụ cho Nga-xô.
Tiếp theo là bán cuộc khởi
nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học.
Rồi hắn bán ngay cả những
thanh niên do nhóm Trần Phú, Hà huy Tập giới thiệu qua Tàu gặp hắn. Mục đích
của hắn là nếu những thanh niên đó và gia đình, bạn bè của họ bị Pháp bỏ tù,
khủng bố, nghĩa là ở vào con đường cùng thì có lợi cho việc hắn tổ chức hoạt
động của hắn sau này; vừa có tiền nhậu nhẹt, hút thuốc thơm, ở khách sạn “cực
kỳ sang trọng” (hồi ký của Nguyễn lương Bằng) lại khoét sâu được tội ác của
thực dân Pháp hơn lên. Làm như thế là hắn đẩy những nạn nhân đó của hắn vào con
đường phải chống thực dân Pháp đến cùng. Thật là hiểm độc! Sau năm 1954, chị
gái ruột của Hồ lặn lội từ Nghệ-an ra thăm hắn mà hắn không cho gặp. Ăn chực
nằm chờ lâu quá, bà ta phải ra về, vừa đi vừa chửi Hồ. Khi làm thí điểm “cải
cách ruộng đất” ở Thái-nguyên, hắn đã bỏ mặc cho bà Nguyễn thị Năm bị tử hình,
mặc dù bà ấy đúng ra là trong “thành phần địa chủ kháng chiến yêu nước”, và là
người đã nuôi Hồ và cả lũ đàn em của Hồ trong những năm đầu của kháng chiến
chống Pháp. Đối với “tình yêu” cũng thế, hắn chỉ cần thỏa mãn tính dục còn hệt
như Sở Khanh, như việc của Nguyễn thị Minh Khai, của Nông thị Xuân v.v… Ngay Võ
nguyên Giáp, cúc cung tận tụy với hắn, nhưng hắn vẫn cảnh giác cho ngồi chung một
chuồng với Nguyễn chí Thanh để hai bên tự giám sát nhau, không ai dám âm mưu
phản hắn. Đó là cách dùng người của Hồ, dù ở bất cứ cơ quan nào, ngành nào.
Xin nêu vài thí dụ cụ thể nữa
để rõ thêm. Như ở nông thôn, sau cải cách ruộng đất thì dù là “chính quyền” hay
“đảng”, bao giờ cũng có hai phe kình chống nhau: a) phe tố láo, vu láo; b)
phe là nạn nhân của tố láo được “sửa sai”.
Bộ công an giao Trần quốc
Hoàn, ủy viên dự khuyết chính trị bộ mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng; có Lê quốc
Thân, ủy viên trung ương mafia đỏ, làm thứ trưởng thứ nhất, Lê quốc Thân theo
Hồ và làm bảo vệ của Hồ từ Vân-nam (Tàu). Trong khi đó, Hồ lại giao cho Trần
hữu Dực, chỉ là ủy viên mafia đỏ thôi, giữ ghế phó thủ tường kiêm chủ nhiệm văn
phòng nội chính phủ thủ tướng. Nghĩa là về “đảng” thì Dực dưới Hoàn, về “chính
quyền” thì Dực trên Hoàn và làm cái việc giám sát Hoàn.
ở tổ chức trung ương, trước kia Lê văn Lương là trưởng ban, Lê đức Thọ là
phó ban. Sau “sửa sai” của “chấn chỉnh tổ chức” Hồ cho đảo ngược: Lê đức Thọ là
trưởng ban, có Vũ Oanh, có Đặng thị Kỳ (vợ Văn tiến Dũng) làm tà lọt. Còn Lê
văn Lương xuống làm phó cho Thọ, có Hà thị Quế cùng phe. Giúp Lê văn Lương cày
nát nhân sự trong khu tư của “chấn chỉnh tổ chức”, trong khi Lương bị giáng
chức thì hai tên trực tiếp phạm tội là Đặng Thí và Đặng việt Châu được Hồ
thưởng cho cái ghế “ủy viên trung ương mafia đỏ”. Đặng việt Châu sau còn được
cho lên ghế phó thủ tướng.
ở ban tuyên huấn trung ương, Hồ cho Tố Hữu làm trưởng ban thay Trường Chinh,
và cái ghế ủy viên bộ chính trị, nhưng các phó ban như Hà huy Giáp (ủy viên
trung ương) thứ trưởng thứ nhất bộ văn hóa kiêm bí thư “đảng đoàn “ bộ văn hóa,
kiêm bí thư “đảng đoàn” hội liên hiệp văn học nghệ thuật; và Trần quang Huy, dự
khuyết trung ương mafia đỏ kiêm bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng văn giáo phủ thủ
tướng lại là hai tay vừa khinh vừa ghét Tố Hữu. Còn Hoàng Tùng, dự khuyết trung
ương mafia đỏ, tổng biên tập báo Nhân dân, tuy là phó của Tố Hữu nhưng cũng coi
thường Tố Hữu. Lại thêm giữa Trần quang Huy và Hoàng Tùng, chúng ghét nhau như
chó với mèo.
Ngay trong cái gọi là đại hội
2 của mafia đỏ, họp ở Việt-Bắc, cuối năm 1951, về nhân sự Hồ đã bố trí cho phù
hợp với âm mưu lâu dài.
1. Hồ vẫn để Trường Chinh giữ
ghế tổng bí thư vì chưa có cớ và chưa đúng thời cơ để lật Trường Chinh. Hơn nữa,
Trường Chinh là tên thân Trung cộng, từ cái bí danh “Trường Chinh” cũng bắt
nguồn của cuộc “trường chinh” của Mao. Tất cả các “tác phẩm” của Trường Chinh
cũng là bắt chước Mao, như “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” được sao
chép từ cuốn “Bàn về đánh lâu dài” hay “Đề cương văn hóa” là từ “Bài nói chuyện
ở Diên-an” của Mao v.v… Vả lại, Hồ đang cần Trường Chinh trong tổ chức cuộc
chiến ở miền Bắc lúc đó và sẽ dùng Trường Chinh và phe cánh Trường Chinh trong
âm mưu về “cải cách ruộng đất” v.v…
2. Đưa Lê Duẩn vào ngôi vị thứ
hai là chuẩn bị cho bước xâm lược miền Nam sau này.
Cũng nên nhớ rằng, ngay dưới
thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư mafia đỏ, Lê Duẩn đã có bài viết ca ngợi
“lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (tức Hồ)”. Nghĩa là, Duẩn là tên mafia đỏ Việt Nam đầu
tiên đã nâng bi Hồ từ lúc Hồ còn hàn vi! Cho nên sau
cái gọi là “cách mạng tháng 8/1945”, trong lúc Trường Chinh sai Hoàng quốc Việt
vào Nam để ngăn sự lộng hành của bọn Trần văn Giàu và Dương bạch Mai mà quên
việc cho đón Lê Duẩn ở Côn-đảo về đất liền. Rồi khi Duẩn đã được về đất liền,
thì chỉ được cho làm một chức rất khiêm tốn là “trưởng phòng dân quân Nam-bộ”!
Phải nhờ Hồ cử Lê đức Thọ vào Nam để “chỉnh đốn” lại xứ ủy mafia đỏ miền Nam và
tiến cử Lê Duẩn vào chức vụ “bí thư xứ ủy”. Rồi ở đại hội 2, Hồ đặt Duẩn ở vị
trí chuẩn bị cho việc thay thế Trường Chinh.
3. Phạm văn Đồng được Hồ đặt ở
vị trí số 3 trong hệ thống tổ chức mafia đỏ. Hồ rất tin Đồng, nhưng biết Đồng
chỉ trung thành chứ không đủ mánh lới thực hiện những âm mưu của Hồ. Vì thế,
khi Hồ kiêm ghế thủ tướng thì Đồng làm phó cùng giữ luôn ghế bộ trưởng ngoại
giao. Sau khi vào Hà-nội (1954), Hồ cho Đồng cái ghế thủ tướng ngụy quyền
Hà-nội. Hồ dùng Đồng làm “quả cân phụ” để giữ thăng bằng trong các cuộc họp
chính trị bộ mafia đỏ, cũng như là người biểu lộ quan điểm của Hồ (khi Hồ cần
ném đá giấu tay). Vì, Hồ muốn nếu có “xáo trộn” trong “đảng” thì “chính quyền”
trong tay Đồng vẫn vận hành để cai trị dân có hiệu quả. Nên nhớ rằng, từ khoảng
cuối 1962, trên thực tế là Phạm văn Đồng ăn ngủ tại “phủ chủ tịch” với Hồ cho
đến lúc Hồ chết. Căn nhà riêng của Đồng ở đường Khúc Hạo chỉ dùng làm cảnh mà
thôi.
4. Võ nguyên Giáp nhờ Hồ mà
nhảy vọt vào chính trị bộ chính thức, cũng như từ trung đội trưởng lên như tên
lửa thành đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương, bộ trưởng quốc
phòng, phó thủ tướng. Nghĩa là Hồ cho Giáp thật rộng tay để hoàn thành mục tiêu
quân sự. Nhưng chính Hồ đã từng căn dặn các đệ tử rằng: “Không được chia quyền
lãnh đạo vũ trang”, “quân đội là xương sống của cơ quan chuyên chính”, “quân
đội là trường học đào tạo cán bộ cho đảng, là chỗ dựa vững chắc của đảng”, thì
đời nào hắn không “thủ cẳng” đối với Giáp. Cho nên giống hệt kiểu “Lưu Bang
dùng Hàn Tín”, khi đã chiếm được nửa nước phía Bắc Việt Nam, Hồ để Nguyễn chí
Thanh (vật đối trọng của Giáp ở ngụy quân) chặt hết chân tay thân cận của Giáp.
Rồi sau đó cử Thanh vào chỉ đạo cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam vì: một là
Thanh là phần tử thân Trung cộng, rất được Trung cộng tin, nên qua Thanh chỉ
huy thì xin súng đạn và các viện trợ của Trung cộng cho việc xâm lược miền Nam
dễ hơn; và hai là, Thanh sẽ ganh đua với Giáp, sẽ tận sức hoàn thành việc xâm
chiếm miền Nam Việt Nam cho Hồ (nghĩa là thực hiện việc bành trướng của thực
dân đỏ), cố gắng “vĩ đại” hơn Giáp.
Ngoài mấy tên nói ở trên được
là ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ khóa 2, thì còn lại hai tên
thân cận của Trường Chinh, được Hồ cho cái ghế dự khuyết chính trị bộ. Đó là:
1) Lê văn Lương – còn kiêm
thường trực ban bí thư – phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương;
2) Hoàng quốc Việt, trưởng ban
dân vận trung ương.
Hồ cho hai tên này hai cái
chức vụ đó để chuẩn bị cho âm mưu hạ chúng một cách “danh chính ngôn thuận”, vì
Lê văn Lương sau sẽ chỉ đạo ngón đòn “chấn chỉnh tổ chức” của Hồ, và Hoàng quốc
Việt phụ trách “thường trực ủy ban cải cách ruộng đất”.
Hồ chọn người để dùng là phải
đảm bảo: một là hắn có thể tin được và hai là kẻ đó phải là người có thể hoàn
thành nhiệm vụ mà Hồ giao phó. Đó là lý do không bao giờ Hồ nghĩ tới việc đặt
Võ nguyên Giáp vào ghế tổng bí thư mafia đỏ như một số dư luận đã và đang tung
ra.
Giờ ta thử tìm hiểu xem có
phải Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã cho Hồ “ra rìa trong quãng đời còn lại” như Lữ
Phương đã viết không? Hay Hồ vẫn nghự trị cho đến tận lúc này là thằng con
hoang – Nông đức Mạnh – của Hồ đang kế nghiệp Việt gian của Hồ.
Âm mưu của Hồ trong cải cách
ruộng đất có thể nói là thành công mỹ mãn, ngay cả Trường Chinh và đồng bọn vẫn
chưa biết đến thân phận của chúng sắp bị đem ra trả cho cái giá đã không chịu
quy phục Hồ ngay từ ngày đầu gặp nhau ở biên giới Việt-Hoa. Đúng lúc đó, đại
hội lần thứ 20 của đảng cộng sản Nga-xô họp. Tất nhiên, các đảng chư hầu đều
phải có mặt. Đoàn mafia đỏ Việt Nam do Hồ – chủ tịch đảng – và Trường Chinh –
tổng bí thư – đi phó hội. Ai ngờ ngày 25/2/1956 Krút-xốp đọc bản tố cáo “tệ
sùng bái cá nhân Stalin” và nêu lên một số tội ác của Stalin. Hồ choáng váng
mặt mày, vì Stalin là thần tượng của Hồ, là cái mẫu sống mà Hồ đang cố sao
chép. Còn Trường Chinh, thì lại hồ hởi ra mặt, chẳng biết có phải vì tìm thấy
chỗ dựa để tấn công Hồ qua cái gọi là “chống tệ sùng bái cá nhân” không, nhưng
thái độ và nội dung mà Trường Chinh đã trả lời phỏng vấn của báo, đài ở
Mát-xcơ-va chắc chắn làm Hồ lo ngại.
Về đến Hà-nội, mafia đỏ họp
hội nghị trung ương từ 19 đến 24-4-1956 để nghe Trường Chinh phổ biến về nghị
quyết 20 của Nga-xô. Khi còn ở Nga thì cả Hồ và Trường Chinh đều đã ký kết ủng
hộ quan điểm của nghị quyết 20 của Nga-xô. Hồ phải ký là đương nhiên vì bao giờ
Hồ cũng tuân lệnh mẫu quốc Nga-xô của hắn. Còn Trường Chinh, một tên giáo điều
đặc sệt cho đến cả cái bí danh lẫn các “tác phẩm” của hắn, mà lại “hồ hởi” ký
mà không hề có tý thắc mắc nào thì lại khác. Cho nên trong hội nghị phổ biến
nghị quyết 20, bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Xuân
Thủy, Trần hữu Dực đã tranh cãi không tán thành, vì thế hội nghị thành “hội
đồng chuột” của Lafontaine, nghĩa là không đi đến quyết định nào. Tỉnh táo điểm
những bộ mặt chống nghị quyết 20 của Nga-xô thì sẽ thấy toàn là những kẻ được
Hồ cất nhắc. Cho nên ta thử đặt câu hỏi: thực hiện nghị quyết 20 “tức chống
sùng bái cá nhân” ở Việt Nam thì có lợi cho ai và có hại cho ai thì sẽ hiểu.
Dù có mù thì cũng thấy, nếu
mafia đỏ Việt Nam thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì kẻ bị ăn đòn đưa đến bị
hạ bệ là Hồ! Còn không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì Trường Chinh mất
cơ hội ngàn vàng để hạ bệ Hồ mà bước lên ngai chủ tịch đảng. Về bọn Lê Duẩn,
Nguyễn chí Thanh, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy thì thi hành hay không
thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô cũng chưa đụng gì đến cái ghế của chúng.
Vì thế ta có thể kết luận rằng chính Hồ là kẻ giật dây
lũ Lê Duẩn trong vụ nghị quyết 20 này của Nga-xô. Bởi nếu không, với cương vị
“chủ tịch đảng” và với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, một mình Hồ cũng đủ
quyền quyết định phải thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô, chưa kể đến Trường
Chinh là “tổng bí thư” vẫn đang là một sức nặng đáng kể. Cho nên Hồ là kẻ chủ
mưu bày ra trò tranh cãi này để vừa né được quả tạ “chống sùng bái cá nhân”,
vừa được tiếng là tôn trọng ý kiến trung ương (mà chỉ một lần duy nhất trước đó
Hồ thực thi là “tiếp tục hút thoải mái thuốc lá thơm Craven A”, khi còn
trong chiến tranh với thực dân Pháp, đang có nhiều khó khăn, nghèo nàn).
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen