* * * * *
Việt Thường
Bài 14
Tội ác của Hồ giáng lên đầu nhân dân cả nước Việt Nam,
từ số liệu người chết, do chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam mà Hồ phát
động được trưng ra bởi tên trung tướng ngụy quân cộng sản Nguyễn đình Ước; số
liệu người chết vì “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cách mạng văn
hóa tư tưởng”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” cũng đã vài triệu;
chưa kể đến tụi mafia đỏ không cho phép thống kê số người chết đói, chết bệnh vì
thiếu thuốc men v.v… Tất cả những cái chết đó đều bắt nguồn từ âm mưu của Hồ
lèo lái chiến tranh giải phóng dân tộc, do Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc
hội Khóa 1 lãnh đạo, thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Cũng vì phục vụ chiến tranh bành trướng của thực dân
đỏ mà Hồ đã dâng đất, dâng biển cho Trung cộng, đánh thức dậy dã tâm cướp đất,
cướp biển của Tàu lục địa để mở đường cho chúng tiếp tục chính sách bá quyền
bành trướng và làm mẫu mực bán nước cho đến bây giờ là bè lũ Đỗ Mười, Lê đức Anh,
Võ văn Kiệt, Lê khả Phiêu, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nông
đức Mạnh noi theo.
Những tội ác trên là rõ ràng, không thể chối cãi và
nhiều người đã công khai lên án. Nhưng, một tội ác khủng khiếp mà hậu quả của
nó chưa biết bao giờ chấm dứt, đó là Hồ sử dụng tập đoàn Việt gian mafia đỏ của
hắn phá tan truyền thống nhân ái, liêm chính, hỷ xả của nhân dân Việt Nam.
Nhìn vào bức tranh xã hội Việt Nam hiện nay, dù là đã
bị sàng lọc qua ngòi bút của chính nhân sự của ngụy quyền Hà-nội, thì thật là
khủng khiếp. Tham nhũng, đĩ điếm, nếp sống vô luân, vô liêm sỉ, cơ hội, mánh
mung v.v… không chỉ ở cái như xưa kia gọi là “tầng lớp hạ lưu”, mà nó thành lối
sống của ngay chính tập đoàn thống trị, tầng lớp trí thức cho đến cả các hội
đoàn tôn giáo (quốc doanh), cả thành thị, cả nông thôn, cả miền núi và cũng
đang rục rịch ra hoa kết trái ngay trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại!!!
Một vài ngòi bút ở hải ngoại đã và đang viết sách chửi
cả dân tộc Việt Nam, y như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, chửi cả làng
Vũ-đại vậy. Và từ đó thì Chí Phèo nổi tiếng có thể nói là hạng nhất của làng
Vũ-đại. Trong khi đó, những người bình thường, hiền hòa, an phận không muốn nổi
danh – dù thơm hay thối – vẫn bốn mùa chăm lo cày cấy; vẫn đều đặn tiếng chuông
nhà thờ, tiếng chuông chùa. Và, khi có giặc thì cũng góp máu xương giữ làng,
giữ nước. Có nghĩa là, đứng ở góc độ người dân (không muốn chơi trội, không có
máu bon chen, cơ hội để cố ngoi lên làm lãnh tụ) trong đó có cả Thị Nở, thì
làng Vũ-đại vẫn là cái gì đó thân thương quyện vào máu thịt, quyện vào từng hơi
thở. Chỉ có duy nhất Chí Phèo phải mượn rượu để đủ can đảm chửi đổng cả cha, cả
mẹ, cả trời, cả đất và cuối cùng là cả làng Vũ-đại!
Sự tồn tại của dân tộc Việt Nam đến tận ngày nay chẳng
lẽ là do “thiếu tự hào dân tộc”, “đố kỵ ghen ghét nhau, “tôn thờ bạo lực và ác
độc đối với nhau” và v.v… Người có nhận xét và sử dụng chữ nghĩa đó chính là
me-xừ Nguyễn gia Kiểng với cái tên cuốn sách cũng đặt “lộn tùng phèo” là “Tổ
quốc ăn năn”. Lá gan to như vậy, phải ra đến hải ngoại mới dám lớn lối, còn lúc
trong vòng kiềm tỏa của mafia đỏ thì nó co lại có phần còn nhỏ hơn gan muỗi. Có
lẽ cái tâm lý ấy dẫn dắt nên bây giờ nó nổ tung ra.
Nêu lên cái hiện tượng “Âu dương Phong luyện chưởng”
trong làng viết ở hải ngoại, để thấy đấy cũng là nạn nhân của sự phá hoại các
giá trị tinh thần của Việt Nam do tên đại gian, đại ác Hồ chí Minh thực hiện,
còn hệ lụy đến nay và ra cả hải ngoại!
Trong tình hình hiện nay, nhiều ngòi bút bị mất phương
hướng nên bày ra cái trò “bát quái trận đồ”, mà tập đoàn mafia đỏ cố tình cổ võ
và chỉ đạo, để bút mực, công sức ở hải ngoại phí phạm vào cái trò tranh luận
“kiểu lá diêu bông là cái gì” mà quên rằng chúng ta chỉ có một cách duy nhất,
một khả năng trội hẳn là dùng ngòi bút để vạch rõ tội ác của tập đoàn Việt gian
bán nước Hồ chí Minh mà điểm quan trọng nhất là chính tên Việt gian Hồ chí
Minh!!!
Nhân dân trong nước, nhất là nông dân đã bắt đầu vùng
lên, lan rộng cả ba miền Trung, Nam và Bắc Việt Nam. Những nơi được coi là
“hang ổ của cách mạng mafia đỏ” lại là nơi mâu thuẫn gay gắt nhất như
Thanh-hóa, Thái-bình, Bến-tre v.v… Nhưng chỉ đến thế thì chững lại.
Tại sao vậy?
- Tất nhiên là bị ngụy quyền cộng sản Hà-nội dùng mọi
âm mưu vừa đàn áp, vừa dụ khị.
- Tại sao chúng lại dụ khị được?
Chính nhờ cái bóng ma của Hồ chí Minh vậy!!!
Nhân dân đã bị nhồi nhét từ nhiều năm vào đầu những
“huyền thoại về Hồ chí Minh” do chính hắn tạo dựng ra; do bộ máy trí nô cung
đình của hắn tô vẽ; do những cây bút người nước ngoài thiếu thông tin trung
thực và cũng vô trách nhiệm nữa. Và nguy hiểm hơn nữa là do những cây bút, hiện
nay đang được xếp vào loại chống đối, làm cho người dân tin rằng họ khổ là do
“cán bộ” làm sai đường lối của Hồ. Vì thế, người dân hy vọng sẽ có sự sửa sai
để thi hành đúng tư tưởng của Hồ là cái bánh vẽ khiến nhiều người trong họ đã
dành cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời tin theo.
Thế là ngọn lửa cách mạng của người dân (nông dân) bị
tụi mafia đỏ đương quyền dập tắt có sự tiếp tay của những cây bút đeo nhãn
“chống đối”, tiếp tay bằng những “huyền thoại về Hồ chí Minh”.
Bản thân những “huyền thoại về Hồ chí Minh” của vài
ngòi bút “chống đối” ở trong nước đã là nấm độc rồi, nó lại được bảo chứng bằng
các báo, tạp chí ở hải ngoại mà người dân trong nước mặc nhiên tin tưởng đó là
tiếng nói của các tổ chức chống cộng nên ăn những nấm độc đó không chút nghi
ngờ.
Sự thiếu thông tin là điều không chấp nhận được của
thời đại hiện nay. Nhưng điều cực kỳ nguy hiểm là dư thừa thông tin giả.
Cho nên tập đoàn mafia đỏ ngụy quyền Hà-nội hiện nay
ra công ngăn nhiều bài viết tố cáo các tội ác của bọn chúng, nhưng không chặn
hoàn toàn. Bởi vì nội dung nhiều bài đã chuyển tải nhiều điều có lợi cho chúng,
đặc biệt là việc đề cao tên Việt gian Hồ chí Minh.
Chính vì thế mà đã xảy ra chuyện trái khoáy là những
người bị áp bức căng khẩu hiệu “Đả đảo đảng” bên cạnh khẩu hiệu “tư
tưởng chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm”!!!
Vậy phải làm như thế nào?
Xin nhắc lại công trình của giáo sư Lê Hữu Mục và cộng
đồng người Việt hải ngoại, đã chứng minh Hồ chí Minh là tên đạo văn, buộc
UNESCO phải hủy việc tổ chức vinh danh hắn là “danh nhân văn hóa thế giới”. Chuyện
này đã rõ ràng như vậy mà một cây bút “chống đối” xuất sắc ở trong nước là ông
Trần Khuê (một nhà nghiên cứu) vẫn tự hào vì Hồ được Liên Hiệp Quốc vinh
danh là “danh nhân văn hóa thế giới” và ông ta đề xướng ra cái gọi là “chủ
nghĩa Hồ chí Minh”!!!(?)
Một thí dụ nữa là tướng Trần Độ. Những bài viết của
ông Trần Độ có tác dụng tố cáo tội ác của tập đoàn mafia đỏ đương quyền hiện
nay, cả trong và ngoài nước. Rõ ràng là có tác động tích cực, khơi dậy được sự
bất bình của nhiều người có thâm niên tham gia tổ chức cộng sản (tức mafia đỏ)
để hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tụi thống trị hiện nay. Nhưng, ông Trần Độ
vẫn tự hào về những tấm huy chương của Hồ trao tặng; tự hào về những chức vụ đã
được ngụy quyền Hồ chí Minh ban cho; tự hào là “công dân loại 1, loại siêu” như
ông tuyên bố. Như thế có nghĩa là đối với ông Trần Độ, họ Hồ vẫn là thần tượng,
là chân lý. Ông Trần Độ chưa tính được xem bao nhiêu quân, dân miền Nam đã chết
vì “tài cầm quân” của ông, theo lệnh Hồ, vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam;
bao nhiêu thanh niên Bắc Việt Nam bị ông lùa vào lửa đạn bom của những người
miền Nam Việt Nam chiến đấu tự vệ chống lại đạo quân xâm lược của ông. Chính
những suối máu, núi xương và thác nước mắt của những người mẹ mất con, người vợ
mất chồng được cô đọng thành những tấm huân chương trên ngực ông và những ngôi
sao cấp tướng của ngụy quân cộng sản. ở cương
vị của ông, với trình độ lý luận của ông, có thể nào ông không hiểu những âm
mưu thâm độc Việt gian của họ Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Về vị trí
trong bộ máy ngụy quyền Hồ chí Minh, ông Nguyễn Hộ chưa bằng ông, nhưng ông ấy
đã có đủ thông tin hơn ông để nhận đúng diện mạo thực của họ Hồ và cái tập đoàn
bán nước của hắn nên ông Nguyễn Hộ đã có một thái độ vừa anh hùng vừa trung
thực vừa có trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Hộ đã tự chặt bỏ hơn
nửa thế kỷ cuộc đời, giai đoạn xanh tươi nhất, vì nó đã bị nọc độc của con hổ
mang bành Hồ chí Minh. Ông tự ý ra khỏi đảng mafia. Còn ông Trần Độ phải chờ bị
đuổi khỏi “đảng” mà vẫn không nỡ rời.
Nếu ông Trần Độ kể cho mọi người (nhất là tuổi trẻ)
biết ông và thế hệ của ông đã bị họ Hồ và cái bánh vẽ “chủ nghĩa cộng sản” lừa
đảo, để hai tay ông nhuốm máu chính đồng bào mình, hai tay chỉ huy phá hoại
chính tài sản cả vật chất cả tinh thần của nhân dân, đất nước Việt Nam như thế
nào thì chính là ông đã tự gột rửa được hết sai lầm và càng được trân trọng,
được ghi ơn.
Cùng góp phần giải quyết công việc nội bộ của dân tộc
của đất nước Việt Nam thì càng cần minh định trắng, đen, sai, đúng.
Hết lòng ủng hộ, chân thành ủng hộ cuộc bút chiến của
các ông Trần Khuê, Trần Độ v.v… đấu tranh với tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh
hiện nay, nhưng không được lờ đi những cái mơ hồ, sai sự thực của các ông ấy.
Bởi không minh bạch chuyện này, cứ đổ lỗi là việc vạch ra những sự thật lúc này
làm ảnh hưởng xấu đến việc đoàn kết các lực lượng “chống cộng” hiện nay, sẽ
không chỉ tác hại trước mắt mà cả lâu dài. Vì không phản đối nghĩa là chấp nhận.
Nếu chấp nhận cái giai đoạn ông Trần Độ xua ngụy quân
cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, gây thương vong cho quân lực Việt Nam Cộng
Hòa, bắn giết nhân dân miền Nam Việt Nam, phá hoại làng mạc, thành thị và nếp
sống của miền Nam Việt Nam không phải là trọng tội thì chẳng hóa ra những liệt
sỹ QLVNCH, những thương phế binh của QLVNCH, những bà mẹ, trẻ em miền Nam Việt
Nam v.v… bị bắn giết và sau tháng 4-1975, hàng triệu quân, dân, cán, chính của
miền Nam Việt Nam bị tù đày, chết cả vài chục ngàn; hàng triệu gia đình bị đuổi
đi lên miền núi hoang hóa cho chết dần chết mòn cả tinh thần, cả thân xác; hàng
triệu người phải bỏ nước ra đi mà ít nhất cũng có cả 300 ngàn người nằm dưới
biển Đông v.v… là không có ý nghĩa chăng?
Ông Trần Độ là người có công lớn với ngụy quyền Hồ
chí Minh. Nhưng cái công đó càng lớn bao nhiêu thì tội ác đối với nhân dân cả
hai miền Bắc và Nam Việt Nam càng lớn bấy nhiêu.
Ông Trần Độ vẫn tự hào về những công lao đó. Ủng hộ việc ông chỉ trích trích
ngụy quyền Hà-nội hiện nay là vấn đề chấp nhận được. Nhưng nếu cố tình quên
việc làm quá khứ của ông ta thì sự tuẩn tiết của những anh hùng liệt sỹ QLVNCH
như các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ; Đại tá
Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn Văn Long v.v… và những mất mát của cả hai miền Nam
và Bắc Việt Nam do cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ phát động sẽ
giải thích như thế nào? Là đúng hay là sai!!!
Chẳng biết do thiếu thông tin hay vì một nguyên nhân
bí ẩn nào đó (kiểu ném đá giấu tay) mà ở hải ngoại hiện nay có tình trạng khó
hiểu: Vinh danh loạn cào cào. Ông Vũ đình Huỳnh mà cũng được nhắc đến còn nhiều
hơn cả Tướng Nguyễn Khoa Nam, Anh Trần Văn Bá v.v… Có thể khẳng định rằng ông
Vũ đình Huỳnh chẳng có chút công trạng nào với dân với nước.
Là một người công giáo, ông bỏ đạo đi theo “cộng sản”.
ở giai đoạn đó, động cơ đi hoạt
động của ông chắc chắn là muốn chống thực dân Pháp, nghĩa là có yêu nước. Như
hàng ngàn hàng vạn thanh niên Việt Nam khác. Năm 1945, ông được đưa làm thư ký
cho họ Hồ. Khi kháng chiến, ông được cho làm vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao.
Đó là chức vụ trời ơi, đất hỡi vì lúc ấy có sứ quán nào đâu. Đến khi Nga-xô và
Trung cộng công nhân và lập sứ quán, thì bọn chúng chủ yếu tự lo liệu lấy. Năm
1954 về Hà-nội thì ngoài sứ quán Nga-xô và Trung cộng thì có thêm ủy ban quốc
tế giám sát đình chiến, với Canada, Ba-lan và Ấn-độ. Nhưng cái vụ lễ tân đâu có
gì quan trọng như đề ra chính sách đối ngoại hay giao dịch gì. Việc của ông Vũ
đình Huỳnh là lo những bữa tiệc, lo người phiên dịch, lo xe đưa đón, lo sắp xếp
chỗ ngồi theo chức vụ của khách. Ông Huỳnh là một lão thành “cộng sản” chứ
không phải là một cán bộ quan trọng. Ông bị “cộng sản” bỏ tù vì nằm trong
“vụ án xét lại chống đảng”. Nếu cái gọi là “chống đảng” là có thật thì chỉ có
nghĩa ông đi tù vì “đảng” của ông không thi hành đúng điều lệ “đảng”. Nghĩa là
khi ông “bảo lưu ý kiến” về việc không tán thành nghị quyết 9, đúng “với điều
lệ đảng”, thì ông bị đi tù. Tuy ở trong”đảng” thâm niên nhưng ông vẫn chẳng
hiểu gì về “đảng và bác Hồ” của ông nên ông vẫn dại dột tin vào điều lệ, hệt
như bây giờ mấy người còn tin vào hiến pháp của ngụy quyền Hà-nội vậy. Ngay
việc “chống nghị quyết 9” thì cũng chỉ là muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo Nga-xô,
nghĩa là làm nô lệ cho Nga-xô chứ có phải đòi hỏi cơm ăn, áo mặc cho dân, đòi
hỏi thực thi dân chủ cho dân và v.v… đâu. Vậy nên ở trong nước đề cao ông Vũ
đình Huỳnh đã là sự vô lý, thế mà ở hải ngoại cũng đề cao ông ấy nữa thì thật
là không biết phải nói như thế nào!!!
Ngoài ông Nguyễn Hộ và mấy người trong nhóm của ông
thì phải kể đến những người dũng cảm dám vì dân chủ và tự do lên tiếng, sau khi
được tận mắt thấy miền Nam Việt Nam, mà Sài-gòn là tượng trưng cho mầm dân chủ,
tự do và phồn vinh. Đó là nhà viết kịch bản sân khấu Lưu quang Vũ; nhà thơ Bùi
minh Quốc; nhà văn nữ Dương thu Hương; phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ
Phu); nhà thơ Hữu Loan; nhà văn Phùng Quán; nhà báo Phùng gia Lộc; nhà thơ Trần
Dần; ông Nguyễn đình Huy; bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… Nhiều người nổi tiếng
trong phong trào “nhân văn – giai phẩm” hụt hơi trong cuộc chạy marathon đã bỏ
cuộc hoặc ngã ngựa; một số giữ được trọn vẹn tấm lòng kẻ sỹ cho đến chết như
Quang Dũng, Bùi quang Đoài v.v… Một số vì còn sống sót trong “vụ án xét lại
chống đảng” dựa vào khí thế của những người nói trên đi tiên phong, đã được sự
ủng hộ và chỗ dựa vững chắc là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, làm chiếc loa
đánh động dư luận quốc tế rất hiệu quả, bấy giờ mới góp sức vạch tội ngụy quyền
Hà-nội hiện nay. Cũng từ đó, dần dần có thêm nhiều lão thành “cộng sản” ngay
thẳng, có cuộc sống gần dân hoặc trở lại làm dân tham gia.
Nhưng, cái vốn quý nhất cần được bảo vệ, ủng hộ, khuyến
khích là lực lượng trẻ, tiêu biểu là luật sư Lê chí Quang, thương gia Nguyễn
khắc Toàn, nhà báo Nguyễn vũ Bình… Những cái đầu tàu này sẽ lôi kéo tuổi trẻ
trong nước nhập cuộc.
Nếu không đề cao tinh thần trách nhiệm khi đưa tin, cứ
bỏ tuốt luốt tất cả chung một rọ, có lẽ đến lúc nào đó, tên khát máu Nguyễn hà
Phan cũng sẽ được đề cao như là nhân vật “đấu tranh cho dân chủ”, vì cách đây
vài năm cuộc đấu đá nội bộ mafia đỏ khiến Nguyễn hà Phan bị lột chức ủy viên
chính bộ mafia đỏ.
Rồi nữa, nếu Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Bùi công
Trừng, Nguyễn văn Trấn v.v… được đề cao như là một loại “yêu nước” thì chắc
những kẻ ngã ngựa trong đấu đá nội bộ bọn mafia đỏ như Tố Hữu, Nguyễn chí
Thanh, Trần Phương, Trần Quỳnh, Cao sĩ Kiêm v.v… cũng sẽ lần lượt được đề cao?!!!
Cách đây một năm thôi, ông Trần Khuê, cây bút chống
đối trong nước còn “ca ngợi”, “trích dẫn” lời Lê khả Phiêu mà không thấy rằng
hắn đang học múa lại bài võ của họ Hồ theo kiểu “voi đú chuột chù đú theo”,
nghĩa là nói thì ra vẻ lắm, mà làm thì lại nâng tên trùm tham nhũng Phạm thế
Duyệt lên ngay bên hắn, ở vị trí thứ hai!!! Ngay sắc sảo như nhà văn Dương thu
Hương cũng trật lất khi nhận xét về tên con hoang Nông đức Mạnh!
Nói chung, cộng đồng người Việt ở hải ngoại được mặc
nhiên thừa nhận là cái mộc bảo chứng “mác chống đối” cho những cây bút chống
đối ở trong nước. Nhưng nói riêng, vẫn có những cá nhân hoặc vài ba nhóm nào
đấy thuộc loại “phi điểu phi thú”. Xưa “chống cộng” hời hợt, nay “chống cộng”
với lập trường mơ hồ, giả tỉnh giả mê ăn tiền. Xin đưa một thí dụ cụ thể: Võ
nguyên Giáp, đại tướng ngụy quân cộng sản, bị đồng bọn cho về vườn, nay bày đặt
viết hồi ký. Ấy thế mà ở hải ngoại đã có ngòi bút nâng bi rồi. Ca ngợi “thịnh
tình của đại tướng Võ nguyên Giáp với văn nghệ” là ân cần trích dẫn: “Một chiến
sỹ tài hoa trong đoàn quân Tây tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”, đã
có những câu thơ:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà-nội dáng kiều thơm.
Rồi chợt nhớ rằng năm 1956, Quang Dũng bị Tố Hữu phê
phán bài thơ “Tây tiến” đó và bị đánh không ngóc đầu lên được, không được sáng
tác cho đến chết! (Xin lưu ý bạn đọc rằng, Quang Dũng giỏi cả thơ, văn, họa và
cả võ nữa). Cũng năm 1956 đó thì Võ nguyên Giáp đang ở đỉnh cao của vinh quang.
Vậy mà Giáp có thèm biết đến Quang Dũng là cái gì đâu. Còn sau năm 1970, Giáp ở
thế lép vế đến mức Phạm huy Thông còn dám cắm cho Giáp một cặp sừng, vậy mà
Giáp dám đưa tay đỡ cho tên trung tá, bác sỹ riêng của Giáp, được về giữ chức
giám đốc sở y tế Hà-nội, can tội dùng quyền cưỡng bức một nữ y tá trẻ ở bệnh
viện St. Paul (Hà-nội) phải hiến thân cho hắn. Nhờ Giáp can thiệp, tên trung tá
vẫn nguyên chức, chỉ có cô y tá bị đuổi việc.
Chuyện rành rành như thế, mà “ngòi bút nâng bi” cố bào
chữa cho Giáp rằng: “Ông đại tướng không có thẩm quyền gì trong việc phê
phán văn học”.
Viết ngu đến như thế mà cũng dám cầm bút! Vậy trong
hồi ký, Giáp trích bốn câu thơ trên của Quang Dũng và khen, là đang làm cái gì?
Có phải phê phán văn học không?
Lý luận kiểu đó nên mới dám viết về việc trưa ngày
30-4-1975, tên nằm vùng Trịnh công Sơn đã ôm đàn lên đài phát thanh của ngụy
quân cộng sản hát bài hắn sáng tác, mang tên “nối vòng tay lớn”, rằng: “Thật ra
anh có hát hay không hát thì chế độ VNCH cũng tan rã”!!!
Chính những ngòi bút “thùng rỗng kêu to”, có căn “nịnh
bợ” đó, đã trộn lẫn thật giả, tô hồng, bóp méo làm nhiễu loạn thông tin, phí
giấy phí mực, công sức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Rồi sợ mọi người biết tẩy của Giáp là thằng hèn, tận
sau khi Quang Dũng đã về trời từ lâu, và chuyện “nhân văn – giai phẩm” đã thành
cổ tích, Giáp mới lưu manh đưa Quang Dũng vào “đánh bóng” cho tập hồi ký, hòng
lừa thế hệ trẻ, “ngòi bút nịnh ở Paris” cố công bào chữa hộ “ông không
phải là người đãi bôi, và ở địa vị, tư thế, tuổi tác ông, không việc gì phải
đãi bôi.” Ghê không! Giọng lưỡi hệt vệ sỹ của Giáp.
“Văn là người”, đọc những dòng trên có thể biết đó là
hạng người như thế nào!!!
Cho nên cần cẩn thận khi đọc, khi đề cao những nhân
vật chống đối trong nước. Đồng thời nên vô hiệu hóa những ngòi bút bẩn, xin cơm
thừa canh cặn của mafia đỏ, đang múa may ở hải ngoại.
Việc nâng bi, vinh danh ồn ào bộ mặt đại Việt gian như
Hồ, bộ mặt đao phủ Võ nguyên Giáp, Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Trần văn
Giàu, Nguyễn văn Trấn, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v…; những bộ mặt trí nô
cung đình mafia đỏ Cù huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh; bộ mặt mật vụ, phản bội
“xanh vỏ đỏ lòng” Trịnh công Sơn; cho đến Nguyễn Duy, kẻ đi đâu cũng đọc bài
thơ hắn sáng tác, đại ý trong khi ngụy quân cộng sản vào xâm lăng miền Nam Việt
Nam, hắn bị một “tên biệt động quân” bắn, chút xíu hắn bị bể sọ. Hắn cầm súng
định bắn lại, nhưng rồi hắn chỉ đuổi để bắt sống (vì nhân đạo). Vào nhà người
ta ăn cướp mà phách lối thế đấy!!! Vậy mà, một số “phóng viên” ở hải ngoại
đã phỏng vấn cho hắn ăn nói mất dạy như vậy mà giả mù, giả điếc đề cao! Thật
khó hiểu!!!
Thử đặt câu hỏi, về vai vế Võ nguyên Giáp còn trên
Nguyễn chí Thanh, vậy mà tại sao Giáp lại chịu để Thanh “nhéo tai, bóp mũi” như
thế? Về sau này, các đàn em cấp dưới của Giáp cũng “khinh” Giáp?
Bây giờ đã có nhiều bằng chứng để lý giải chuyện đó.
Một là, Giáp khi còn đi học, tham gia biểu tình bị thực dân Pháp bắt và kết án
tù 18 tháng. Nhưng mới ở có ba tháng thì được tha lại còn tiếp tục đi học, vì
Giáp đã “đầu hàng”, đã làm đơn xin “mẫu quốc” cho học để phục vụ “mẫu quốc” và
vì thế được tên chánh mật thám của thực dân Pháp ở Đông-dương lúc ấy, là Marti,
nhận làm con nuôi. Hai là, có thể đi đến kết luận là khi Hồ bảo Giáp bỏ học
trường võ bị Hoàng-phố (Tàu) về giúp Phùng chí Kiên trong trung đội vũ trang
tuyên truyền, thì, dù là theo gợi ý của Hồ, nhưng Giáp là kẻ trực tiếp bán
Phùng chí Kiên cho mật thám Pháp. Còn chuyện bê bối, đĩ bợm, lãng phí quan cách
v.v… của Giáp thì khỏi nói, đúng là “học trò giỏi” của họ Hồ. Và, tài cầm quân
của Giáp thì: chiến dịch biên giới 1950, có đại tướng Trần Canh của Trung cộng
chỉ huy giùm; trận Điện-biên-phủ có nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần
Canh và thiếu tướng La quý Ba của Trung cộng chỉ huy hộ. Riêng trận Vĩnh-yên
1951, Giáp đích thân chỉ huy thì giống như Tết Mậu Thân (1968) sau này vậy. Đấy
chính là những hòn sỏi trong miệng Giáp, khiến Giáp lúng búng, không dám đụng.
Và, vì thế, dù Giáp có công phò tá Hồ nhưng Hồ vẫn không thể ban cho Giáp cái
lon “nguyên soái”.
Thời kỳ phong trào “nhân văn – giai phẩm”, Võ nguyên
Giáp đang là ngôi sao sáng và cũng như Phạm văn Đồng, được mấy anh “nâng bi” ca
ngợi là người yêu quý trí thức. Thế nhưng Giáp không hề “an ủi” một ai, chứ đâu
cần phải che chở, từ Hoàng Cầm, Trần Dần đến Quang Dũng, tuy tất cả đều ở dưới
quyền Giáp. Cũng như thế, các đại tá chánh văn phòng; cục trưởng quân báo của
Giáp không hề được Giáp “minh oan” khi họ bị Nguyễn chí Thanh cho bắt.
Tại sao? Bởi Giáp biết rằng tất cả những việc ấy đều
do lệnh của Hồ, chứ không
phải “không có thẩm quyền gì trong phê phán văn học” như nhà báo “thùng rỗng” ở
Paris đã viết.
Cái sự ngậm miệng của Giáp cho đến tận năm 2000 mới
dám nhớ tí chút đến Nguyễn Tuân, Quang Dũng, trong hồi ký, mà lại nhắc đến
những húy kỵ của thời đánh “nhân văn – giai phẩm”, như bài thơ “Tây tiến” của
Quang Dũng, như “Tùy bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, rõ ràng là thuở đó
Giáp phải bị “sợ đến cấm khẩu” luôn. Kẻ đó, ngoài Hồ, làm Giáp sợ còn là ai nữa?!!!
Cho nên phải thấy Hồ mới là “đầu não” gây nên
tội ác về cái gọi là đánh “nhân văn – giai phẩm”. Trường Chinh, Nguyễn chí
Thanh, Hoàng văn Hoan, Tố Hữu chỉ là những tên đao phủ thừa hành trong vụ án
“nhân văn – giai phẩm mà thôi.
Lại nữa, thử đặt câu hỏi: Tại sao Võ nguyên Giáp cũng
né không đả động đến cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng”, mà trong đó có biết
bao đàn em, trong ngụy quân cộng sản của Giáp dính trấu, như tướng Đặng kim
Giang, tướng Nguyễn văn Vịnh, tướng Lê Liêm, các đại tá Lê vinh Quốc, Đỗ đức
Kiên, trung tá Văn Doãn v.v…
Câu trả lời cũng giống như trên, nghĩa là Võ nguyên
Giáp biết rằng Lê đức Thọ chỉ thừa hành khẩu lệnh của Hồ để trừng trị nhóm
“chống nghị quyết 9 xin bảo lưu ý kiến”, bị chụp cho cái nón cối “vụ án xét lại
chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”.
Vì thế, những nạn nhân trong vụ “nhân văn – giai phẩm”
cũng giống hệt những người bị quy tội “xét lại chống đảng, làm gián điệp cho
nước ngoài”, khi bị bắt thì kêu oan mà chẳng đi tới đâu. Đến khi được tha thì
cũng mập mập mờ mờ. Mấy đời “tổng bí thư” đều tránh né nói rõ nguyên nhân, chỉ
muốn cho chìm xuồng trong yên lặng!
Một câu hỏi nữa lại được đặt ra: Tại sao người ta lại
kết tội Lê đức Thọ và Lê Duẩn, thậm chí người ta còn “chứng minh” rằng họ Hồ
cũng là nạn nhân của sự lộng quyền của hai anh chàng họ Lê ở trên đã có lý giải, nay xin nói rõ
hơn.
Không phải tất cả đều mơ hồ về sự nhúng tay của Hồ mà
Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ. Bởi vì người ta vẫn tự
hào cái quá khứ kháng chiến chống Pháp, mà không nhìn ra hoặc không đủ can đảm
để nhìn ra rằng cái gọi là kháng chiến chống Pháp từ đầu 1952 thực tế chỉ là
nằm trong lịch trình thay thầy đổi chủ. Nghĩa là thay thực dân Pháp
bằng thực dân đỏ Nga-xô, mà kết quả đã cho thấy thực dân đỏ còn
tàn bạo gấp vạn lần thực dân Pháp. Một điều rõ ràng nhất, là nhiều trí
thức do Pháp đào tạo đã trở thành những người yêu nước nồng nàn như Nguyễn Thái
Học, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Trần Trọng Kim, bác sỹ
Trần Văn Lai v.v… Còn trí thức do “thực dân đỏ” (cả Nga-xô và Trung cộng) đào
tạo thì đều thành lũ gia nô hay nói như Dương thu Hương là “trí thức mang trái
tim chó”, hay nói như Mao trạch Đông là “không bằng cục cứt”. Và ngay những trí
thức của Pháp đào tạo, đã có những lúc sống đẹp và hào hùng, khi kết hợp với
thực dân đỏ cũng thành hèn, thành gia nô. Những điển hình là Phan Anh, Huỳnh
văn Tiểng, Mai văn Bộ, Nguyễn văn Huyên, Hoàng minh Giám, Kha vạng Cân, Trần
đăng Khoa, Nghiêm xuân Yêm, bác sỹ Phạm khắc Quảng, bác sỹ Trần duy Hưng, giáo
sư Hoàng xuân Nhị, Bùi Kỷ, Phạm văn Bạch, luật sư Nguyễn thành Vĩnh và v.v…
nhiều lắm, gần như trọn vẹn những ai chót mắc vào lưới nhện của Hồ (đại diện
của thực dân đỏ).
Nếu thẳng thắn nhìn vào bộ mặt Việt gian của Hồ thì có
nghĩa là phải chặt bỏ hết cả cuộc đời, phải thừa nhận tội đồng lõa với Hồ. Điều
này không phải dễ dàng. Phải có dũng cảm như ông Nguyễn Hộ mới dám đoạn tuyệt
với cái quá khứ đó.
Cho nên (dù là nạn nhân của Hồ) người ta vẫn phải đề
cao Hồ, cố nhắm mắt bỏ qua mọi bằng chứng tội ác rành rành của Hồ mà họ có phần
góp sức, để tấn công vào Lê Duẩn và Lê đức Thọ, cũng như tụi đầu nậu sau này.
Họ không thấy rằng hầu hết nhân dân Việt Nam bị Hồ lừa, ở các mức độ khác nhau.
Cho nên bị lừa nhiều hay bị lừa ít chỉ biểu thị là nạn nhân nhiều hay nạn nhân
ít trong các hành động tội ác của Hồ mà thôi. Sau này khi nhắm mắt xuôi tay, có
muốn nói, muốn viết cũng chẳng được. Lịch sử sẽ phán xét công bằng và sáng
suốt.
Nhưng, cái tai hại cực kỳ nghiêm trọng cho toàn dân
Việt Nam lúc này lại chính là việc tiếp tay với tập đoàn mafia đỏ đương quyền
đề cao họ Hồ.
Việc làm này, như trên đã phân tích, đã và sẽ làm
chững lại phong trào vùng lên của nông dân, vì họ hy vọng sẽ có sửa sai để đi
đúng con đường của Hồ. Bọn cơ hội đi hai hàng ở hải ngoại lại làm nhiễu thông
tin để sức mạnh dư luận quốc tế bị lái lệch hướng. Còn tập đoàn mafia đỏ cầm
quyền, cứ núp sau cái thây ma của họ Hồ (mà ngay những kẻ chống đối chúng và
một số cây bút hải ngoại vẫn đề cao; một số báo, tạp chí giúp chuyển tải những
sự đề cao Hồ có tính xuyên tạc đó) để “đại hội này sửa sai”, rồi “lại đại hội
sau sửa sai” và cứ thế, người dân cứ việc chờ ăn bánh vẽ, còn chúng thay nhau
làm “tổng bí thư”. Thí dụ cụ thể: Đỗ Mười nghe mãi câu chuyện tham nhũng của
Phạm thế Duyệt, Nguyễn công Tạn, Võ văn Kiệt v.v… Mười lui cho Lê khả Phiêu, ấy
thế mà Phạm thế Duyệt lại được Phiêu nâng lên thành nhân vật số 2; và băng của
Phiêu xuất hiện một cây tham nhũng mới: tên trung tướng Phạm văn Trà. Đến khi
Phiêu lui thì lại đến Nông đức Mạnh lên, những bộ mặt tham nhũng cũ không bị
đụng cọng lông chân như Kiệt, Tạn, Duyệt, Cao sĩ Kiêm, Nguyễn tấn Dũng, Trương
tấn Sang, Lê xuân Tùng v.v… Riêng Phạm thế Duyệt, không nằm trong trung ương
mafia đỏ nữa, nhưng vẫn ngồi cái ghế loại cha bố của xã hội chủ nghĩa đỏ. Đó là
Duyệt giữ chức chủ tịch đoàn chủ tịch Mặt trận tổ quốc trung ương!!! Và, lần
đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam (mà cũng là cả thế giới), nhân
vật loại 2 của Bắc triều là Lý Bằng đến Việt Nam, mà cả ba đời “tổng bí thư
mafia đỏ Việt Nam” ra sân bay quỳ lạy “sứ thiên triều”. Đó là ba tên Việt
gian trong băng đảng của họ Hồ, lần lượt là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức
Mạnh, những đứa bán đất đai và biển của Việt Nam cho ba Tàu cộng, đúng như Hồ
đã làm khi hắn còn chưa bị bắt giam ở hỏa ngục (âm ty).
Xin hỏi các cây bút “chống đối” ở trong nước, đã dũng
cảm tố giác tội bán nước của bè lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan
văn Khải, Trần đức Lương, Nguyễn văn An v.v… sao không thấy rằng chúng đi
đúng đường lối của Hồ đấy. Sao kết tội chúng mà không kết tội Hồ?
Cái chưa bao giờ hiện hữu là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”
thì nhìn ra và mô tả cứ như mấy nhà văn, nha thơ ba Tàu ngày xưa viết về “Đường
Minh Hoàng du Nguyệt điện”; còn tội ác bán nước, giết dân, đụ bậy, tham nhũng,
lãng phí, đạo văn của Hồ thì còn bút tích; còn số liệu, tên người; còn nhân chứng;
còn chứng cớ, hình ảnh; còn bằng chứng thì lại giả vờ hoa mắt không chịu nhìn
ra!!!
Và, một điều trái khoáy nữa là chính Hồ, một thằng cha
dám làm mọi việc “Trời không dung, Đất không tha”; một thằng tham danh, tham
quyền, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích; một thằng tự đề cao một cách lố bịch
và vô liêm sỉ dám phét lác là sẽ “”đưa năm châu đến đại đồng”, mà bản thân hắn
không dám nhận mình đẻ ra “chủ nghĩa” gì. Thế mà có người lại nhìn ra “dê
đực của Tô Vũ đẻ dê con”. Thật là đại tài nhưng lại đại tai cho nhân
dân Việt Nam, nói chung!!!
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen