SỰ TÍCH CON YÊU RÂU XANH Ở VIỆT NAM 18
* *
* * *
Việt Thường
Bài 18 và hết
Ăn uống của Việt Nam Cộng Hòa cũng khác hẳn. Bên Bắc
cầu Hiền-lương thì hàng quán xa thưa thớt. Nếu có vào cũng chỉ trà xanh, vài
quả chuối còm và khá hơn thì vài hột vịt luộc. Qua bờ Nam Bến-hải đã như trời
với vực. Quà ăn, nước uống phong phú, sạch đẹp mời chào tận miệng. Gần một phần
tư thế kỷ dưới sự thống trị của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, người dân miền
Bắc XHCN muốn ăn phải đi tìm như chó tìm xương, lại còn phải vẫy đuôi sợ bị đá
vỡ mỏ. Nay vào đến đất của Việt Nam Cộng Hòa, được mời chào cứ như “thị vệ dâng
cơm cho vua”. Họ chợt tỉnh cơn u mê gần phần tư thế kỷ để mở đầu cho việc đi
tìm lại chính mình.
Phép lạ của Sài-gòn Việt Nam Cộng Hòa biến đổi những
người miền Bắc XHCN thành:
1) Những người có chút lý tưởng thì bừng tỉnh lo cho
số phận của dân tộc Việt Nam rồi sẽ ra sao trên mép vực XHCN. Đó là những người
như Nguyễn Hộ, Bùi minh Quốc, Dương thu Hương, Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu)
v.v… tuy còn ngộ độc của quá khứ ở các mức độ khác nhau!
2) Những lũ cơ hội đi vô thực dụng một cách tàn bạo.
Chúng nhào vào Nam hôi của, ngay chính với cả bà con, họ hàng, thân tộc. Lừa
đảo, cướp đoạt trắng trợn.
3) Những tên lớn bé của bậc thang quan lại đỏ lộ
nguyên hình yêu ma đội lốt người. Vài thí dụ cụ thể về đàn áp:
- Quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa bị lừa
đi tù, bị ghép tội “phản động”;
- Người có của bị ghép tội tư sản, cũng tù đày, tịch
thu tài sản; cưỡng bức đi lưu đày vùng hoang hóa;
- Trẻ em mới học cấp 1 đã bị “cải tạo lao động”, phải
đi làm vệ sinh đường phố, làm cả ở những nơi nguy hiểm. Nhiều em chết vì mìn,
vì lựu đạn rơi rớt;
- Lệnh ngăn sông, cấm chợ để trả thù “nhân dân miền
Nam” đã không vùng lên khi cộng sản xâm lăng, khiến chết vì đói, chết vì mất hy
vọng, vì uất ức biết là bao nhiêu;
- Nhà tù mọc như nấm, đến mức trường học, bệnh viện,
khách sạn v.v… cũng bị dùng làm nhà tù. Thí dụ như khách sạn Đại-lợi ở chợ Ông
Tạ (Sài-gòn)
- Trong cái không khí đàn áp, trả thù của đạo quân xâm
lược mà cũng chỉ có quân xâm lược mới làm như vậy, thì các đầu nậu chóp bu tập
đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh sinh hoạt ra sao?
- Văn phòng trung ương mafia đỏ lẹ nhất, đã cử người
đi khắp miền Nam, đặc biệt là Sài-gòn và Đà-lạt, để chiếm các vi-la to đẹp
nhất, dành cho trung ương.
- Văn phòng thủ tướng ngụy quyền Hà-nội cũng cho người
nhào dzô để kiếm nhà, kiếm xe cho cái gọi là “nhà khách chính phủ”.
- Cho đến cả “cuốc hội” ngụy quyền và cái gọi là “mặt
trận tổ cuốc” cũng vào xí phần. Khu vi-la ở đường Hiền Vương (sau đổi là Võ thị
Sáu); một số vi-la lớn ở Nguyễn Minh Chiếu và cả tòa nhà của dược sỹ Nguyễn cao
Thăng bị biến thành tài sản của “mặt trận tổ cuốc”.
- Các bộ, các ngành cũng đua theo, nhiều khi chiếm rồi
bỏ đấy như dãy nhà ở Duy Tân – Võ văn Tần, do tổng cục lâm nghiệp chiếm chỉ có
hai, ba gia đình ở để giữ phần. Các phòng gạch men đẹp như vậy bị dùng làm chỗ
nuôi heo và gà!
- Mấy tên ở bưng về và tụi nắm quyền ở Sài-gòn như
Trần nam Trung, Võ văn Kiệt chiếm trọn vẹn cả đường Tú Xương! (Thật tội nghiệp
cho ông Tú).
- Lép vế như hai đảng Dân chủ và Xã hội cũng cướp được
căn vi-la đồ sộ ở Duy Tân (sau đổi là Phạm ngọc Thạch), gần nhà “đồng chí” thẩm
phán tối cao pháp viện của miền Nam là Trần thúc Linh.
- Vợ và con Lê Duẩn “được” làm ở báo “Sài-gòn giải
phóng” để có quyền chiếm dụng nhà cửa, dư thừa đến mức đóng cửa bỏ đó như tòa
nhà đồ sộ ở cuối đường Võ văn Tần.
- Anh em nhà Lê đức Thọ và con cháu thì khỏi nói. Mai
chí Thọ 4 lần đổi nhà, mỗi lần đi sang nhà mới thì mang hết đồ đạc theo, chỉ
trả lại xác nhà. Cuối cùng cướp luôn hai vi-la: an cư tại vi-la ở đường Phạm
ngọc Thảo, còn vi-la ở đường Duy Tân sau này cho hãng Shell thuê. Thậm chí lũ
gia nô của Lê đức Thọ cũng trở thành sáng giá. Thí dụ: Văn Lượng, phóng viên
ảnh của Việt Nam thông tấn xã, nhờ theo Lê đức Thọ qua chụp ảnh ở hội nghị
Paris về Việt Nam, được đặt lên ghế giám đốc công ty nhiếp ảnh của Sài-gòn.
Nguyễn văn Bẩy, lái xe cho Lê đức Thọ ở Paris, trở thành phó giám đốc sở ngoại
vụ của Sài-gòn. Và, tất nhiên có chức thì cũng có quyền cướp tài sản của nhân dân
miền Nam.
- Ngay Trường Chinh, người “đồng chí” của tiến sỹ
Nguyễn thanh Giang, đã khiến Nguyễn thanh Giang “bật lò xo” khi thấy Trần Quỳnh
động đến Trường Chinh, cũng cho phép bản thân và con cháu nội ngoại, xa gần
quyền ăn cướp. Đến mức, một tên “người dưng nước lã” có công tìm được mộ một
người bà con của Trường Chinh bị quân lực Việt Nam Cộng Hòa trừng trị về tôi
xâm lược, cũng được Trường Chinh đích thân ra lệnh cho tụi đô hộ Sài-gòn cấp
cho hắn một căn nhà ở ngay ngã tư Lê Lợi – Pasteur, mà chỉ cần cho mướn cái
quầy hàng không thôi đã cho hắn cuộc sống vật chất trên mức phong lưu.
- Bọn bồi bút như Bảo định Giang, Nguyễn quang Sáng,
Đinh Phong, Xuân Hồng v.v… một bước lên vi-la, xe hơi. Trần minh Tước (tức Xích
Điểu), nguyên chủ tịch hội nhà báo của ngụy quyền Hà-nội chiếm cả căn lầu lẫn
cửa hàng của căn phố ở đường Tự Do (sau đổi là Đồng Khởi), trước khi kiếm được
cô vợ trẻ bằng chưa đến 1/3 tuổi của hắn thì tạm thời cặp bồ với Kiều mộng Thu.
- Diệp minh Châu chiếm căn vi-la số 222 đường Pasteur
với đầy đủ đồ đạc, xe hơi (nghe đâu đó là tư gia của ông Nguyễn Đệ, đổng lý văn
phòng của quốc trưởng Bảo Đại).
- Ngay những nhân vật “nhếch nhác” ở Hà-nội trước
4-1975 như luật sư Nguyễn thành Vĩnh cũng lên hương. Cũng chiếm được nhà cửa xe
cộ và béo trắng, bệ vệ hẳn ra. Còn Trần văn Giàu cũng chiếm được một cái vi-la
đồ sộ, cuối năm 2001 mới đây bán được mấy ngàn lạng vàng, đã bỏ ra 1000 lạng
làm giải thưởng lịch sử hằng năm cho các nhà “xuyên tạc lịch sử” trong thế hệ
trẻ. Không con cái, Trần văn Giàu muốn đi với lịch sử mãi mãi. Hắn già nên nghĩ
quẩn mà thôi, chắc chắn chỉ riêng tín đồ Hòa Hảo cũng sẽ mãi mãi nhớ tên Trần
văn Giàu, Dương bạch Mai là những đứa đã hãm hại Đức Huỳnh Giáo Chủ và hàng
chục ngàn tín đồ và chức sắc Hòa Hảo khác!
Cuộc chiến thắng của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh
trong việc xâm lăng miền Nam Việt Nam, là một mất mát không gì bù đắp được cho
không chỉ đối với nhân dân miền Nam mà là cho cả đất nước Việt Nam. Lịch sử bị
kéo lùi lại còn tệ hơn thời thực dân Pháp cai trị. Các giá trị vật chất, tinh
thần bị phá hoại nghiêm trọng, không biết phải bao thế hệ nữa mới hàn gắn lại
được. Cái mất mát lớn nhất là sự kỳ thị Bắc – Nam; là truyền thống gia đình bị
đổ vỡ vì cảnh “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”.
Bọn đệ tử của Hồ, những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm
văn Đồng thi hành tiếp lịch trình của Hồ đã vạch, bất chấp thực tế xã hội. Lê
Duẩn cầm đầu một phái đoàn gồm gần trọn vẹn chính trị bộ của đại hội mafia đỏ
lần 4, sang mẫu quốc đỏ Nga-xô ký hiệp ước “hữu nghị và hợp tác”, nội dung na
ná như hiệp ước Patenôtre. Nghĩa là gần như công khai Việt Nam trở thành một bộ
phận lãnh thổ Nga-xô. Chính Tố Hữu, trong hội nghị tuyên huấn đã phấn
khởi tuyên bố: “Cơ duyên đã khiến Việt Nam trở thành cái đuôi của phe XHCN”!
Và, 1979 cái đuôi đó bắt đầu quậy sang Tây-Nam để
thành chiến tranh bành trướng sang Căm-bốt và phía Bắc để đoạn tuyệt với “anh
hai Trung cộng”, giữ phẩm tiết “tôi chung thờ một chúa”, đó là Nga-xô!
Có nhiều nguyên nhân thúc đẩy bọn đệ tử của Hồ phát
động chiến tranh, nhưng cũng có một nguyên nhân quan trọng là bọn chúng vốn
được hình thành để chém giết, phá hoại; có thói quen cai trị trong thời chiến
và thói quen ăn cướp để tồn tại. Nói một cách khác, cái tổ chức Việt gian
cộng sản của Hồ là tụi phi sản xuất tuyệt đối, là ký sinh trùng của xã hội.
Cho nên chúng phát động chiến tranh để ăn cướp thêm của dân cả hai phía: Việt
Nam và Căm-bốt; để duy trì sự độc tài; để đổ lỗi cho chiến tranh gây ra mọi khó
khăn cho dân, y hệt Hồ một mặt xâm lăng miền Nam, một mặt đổ lỗi cho “Mỹ-Ngụy”
là nguyên nhân gây ra mọi đói kém của miền Bắc!!! Và, quan trọng nhất là
chúng thực hiện mục tiêu là nguyên nhân ra đời cái tổ chức Việt gian của chúng.
Đó là “đảng cộng sản Đông-dương”, công cụ bành trướng của thực dân đỏ.
Ngay sau đại hội mafia đỏ lần 4 (1976), nhìn vào thành
phần trung ương mafia đỏ, người ta đã thấy đây là nhân sự để làm chiến tranh.
Nhưng cái nguyên nhân chủ yếu gây chiến tranh sang
Căm-bốt của tập đoàn cộng sản Việt gian là chúng muốn tiêu diệt sự vùng lên của
nhân dân miền Nam Việt Nam.
Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, tập đoàn Việt
gian cộng sản, qua cuộc chiến Xuân-lộc, qua việc nhân dân miền Nam không nổi
dậy như chúng mong muốn, mà chỉ có tụi nằm vùng của chúng cùng lũ lưu manh trộm
cắp mà nhân dân miền Nam gọi là “cách mạng 30”. Như ở Sài-gòn, lũ gọi là đoàn
luật sư do Đỗ hữu Cảnh cầm đầu; tụi sinh viên phản chiến do Dương văn Đầy, Kim
Hạnh lèo lái; Trịnh công Sơn lên đài hát bài “nối vòng tay lớn”, có sự phụ họa
của tụi Miên đức Thắng; rồi bọn công an nằm vùng Huỳnh bá Thành, Vũ ngọc Nhạ;
bọn cơ hội như Nguyễn văn Bảy ở hội công thương; Kiều mộng Thu, Ngô công Đức,
Lý quý Chung, thẩm phán Trần thúc Linh, mụ Ngô bá Thành, giáo sư Lê văn Thới,
Vũ Hạnh, phó thủ tướng Nguyễn văn Hảo, “chuẩn tướng” Nguyễn hữu Hạnh v.v… là
vẫy đuôi mừng quân xâm lược. Còn nhân dân miền Nam lại tiếp tục sinh hoạt bình
thường. Mỹ thôi “can thiệp”, quốc tế “giả mù giả điếc”. Cho nên tập đoàn Việt
gian cộng sản hết do dự, nhất là sau khi đã lừa được quân, dân, chính miền Nam
vào các trại tù. Đấy là bước thứ nhất. Như vậy là chúng tạm thời vô hiệu hóa
được lực lượng nguy hiểm trước mắt là quân đội, chính quyền và các đảng phái
chính trị.
Bước thứ hai là tập đoàn Việt gian cộng sản vô hiệu
hóa sức của nhân dân ở đô thị miền Nam bằng các chiến dịch đổi tiền; chiến dịch
tiêu diệt tư hữu mang tên X1 và X2, và đuổi đi lưu đày ở rừng núi hoang hóa.
Chúng hiểu rằng hoàn toàn khác với nông thôn, người dân đô thị hầu hết không
ủng hộ chúng và thời gian họ sẽ là lực lượng chống đối mãnh liệt bộc lộ dưới
nhiều phương diện, cả kinh tế, cả văn hóa, cả sinh hoạt xã hội.
Vì vậy chúng quyết định “thừa thắng xông lên”. Cho nên
mới có chuyện điều động lực lượng ra biên giới với Lào và Căm-bốt, bằng
cách lập nông trường quân đội, đẻ ra cái gọi là “tổng cục kinh tế của bộ quốc
phòng”, và di dân từ Bắc vào, di nguyên cả làng. Bởi trong hai chục năm chiến
tranh, các làng xã ở Bắc Việt Nam đều là “dân vi binh”. Có ban chỉ huy cấp tiểu
đoàn ở xã. Và dân quân thì thông thạo sử dụng đủ loại vũ khí, đến mức dân quân
vùng biển có pháo tầm xa để bắn ra tàu biển. Cho nên cần nhớ rằng: Di dân Bắc
vào và thành lập các nông trường quân đội chính là điều động binh lực chốt ở
biên giới định làm cuộc chiến bành trướng bất ngờ.
Nếu bước thứ nhất, tập đoàn Việt gian cộng sản tạm
thành công việc vô hiệu hóa quân, dân, chính, đảng ở miền Nam, thì bước thứ hai
là vô hiệu hóa nhân dân đô thị đã không như ý muốn của chúng. Nhiều tổ chức
phục quốc với nhiều danh xưng khác nhau mọc lên khắp nơi. Tuy rằng chưa có
tổ chức nào gây được tiếng vang lớn, nhưng đó là chỉ dấu hoàn toàn khác với sự
an phận của nhân dân miền Bắc sau 1954.
Vừa nằm trong âm mưu “giữ con tin”, vừa có nhân lực
cho chiến tranh bành trướng thực dân đỏ, tập đoàn Việt gian cộng sản tiến hành
bước ba, nghĩa là chúng bắt thanh niên nam nữ của miền Nam vào “thanh niên xung
phong” và đi “lính ngụy cộng sản”. Như thế là chúng sẽ tiêu diệt được lực lượng
đối kháng tương lai, dùng địch giết thế hệ trẻ của miền Nam và dùng máu xương
thế hệ trẻ của miền Nam mở rộng địa bàn của chủ nghĩa thực dân đỏ. Đồng thời
cột gia đình những thanh niên bất hạnh đó vào cái lồng vô hình “cha mẹ, vợ con
bộ đội cách mạng”, không dám giúp đỡ các tổ chức “phục quốc” của miền Nam.
Từ một lò ma giáo mà ra, nên đường đi nước bước của
tập đoàn Việt gian cộng sản làm sao qua mặt được “anh hai Trung cộng”, vì thế
cả Uông đông Hưng, thường vụ chính trị bộ Trung cộng và Đặng dĩnh Siêu, vợ của
Chu ân Lai, thì thọt qua Căm-bốt với Pôn-pốt, Khiêu-xăm-phon và Iêng-xa-ri. Và,
kẻ bị bất ngờ lại là tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng, chết chóc, tang tóc
đau khổ vẫn giáng lên đầu nhân dân, cả miền Nam, cả miền Bắc. Một phong trào
phản kháng kiểu mới bùng nổ không gì cản nổi: vượt biên bằng mọi giá của nhân
dân cả hai miền Nam và Bắc.
Khỏi cần nhắc lại cái giá của cuộc vượt biên đi tìm tự
do.
Khỏi cần nhắc lại những khó khăn của những người tỵ
nạn cộng sản Việt Nam phải vượt qua để hội nhập với nơi cư trú mới, kiến lập
cuộc sống ổn định. Và, những gương thành công mọi mặt từ kinh tế đến khoa học
kỹ thuật của cộng đồng người Việt hải ngoại đã được thống kê và nhắc đến nhiều.
Cái đáng nói là vẫn mở đầu bằng quân lực Việt Nam Cộng
Hòa trong cuộc chiến kiểu mới chống tập đoàn Việt gian cộng sản. Đó là phó đề
đốc Hoàng cơ Minh, là đại tá Võ đại Tôn, là anh hùng Lý Tống v.v… Từ đó các tổ
chức yêu nước tự phát hình thành, phối hợp với nhau đã gây nên tiếng vang cả
quốc tế, cả trong nước.
Sự thành công trong cuộc chiến của cộng đồng người
Việt hải ngoại chống tập đoàn Việt gian cộng sản, khiến chúng không dám hỗn láo
gọi cộng đồng người Việt hải ngoại là “đĩ điếm, phản động, tỵ nạn kinh tế
v.v…”. Chúng phải thừa nhận cộng đồng người Việt hải ngoại là Việt kiều yêu
nước!!! Và,
chúng thi hành những âm mưu thâm độc là cài người nằm vùng trong các tổ chức
của cộng đồng người Việt; lèo lái, mua chuộc những tụi cơ hội; đe dọa những
người trót làm “ăng ten” cho chúng khi còn ở trong nước, khi còn ở các “trại
cải tạo” để làm việc cho chúng, từ kinh tế lái sang văn học nghệ thuật rồi cái
đích cuối cùng là lập trường chính trị. Thủ đoạn của chúng là phá sự đoàn kết
của cộng đồng, phân hóa thành nhiều phe nhóm; phá hoại trong từng nhóm; đẻ ra
nhiều quan điểm để mọi người mất thì giờ tranh luận, quần chúng thầm lặng chán
nản. Khai thác tính ngại khó ngại khổ, nôn nóng và vụ lợi của người ta (nói
chung) để đưa ra những lập luận “nghe thì có vẻ ôn hòa, hợp lý” nhưng thực ra
rất nguy hiểm như “ma túy bọc đường”. Bên cạnh đó thì chúng tung tin bịa đặt để
dần dần làm mọi người lúc nào cũng “hoài nghi”, không biết tin vào đâu.
Hoàn toàn khác với miền Bắc trước 4-1975. Loại trừ sự
phản kháng với kiểu “lửa rơm” của “nhân văn – giai phẩm”, mau chóng bị dẹp, sự
phản kháng của nhân dân miền Bắc Việt Nam cao nhất là “lãn công, lãng phí, buôn
lậu, phá hoại sản xuất” mà cũng chỉ là tự phát, không có tổ chức. Ngoài ra,
trong lĩnh vực văn học cũng chỉ tìm cách “luồn lách” vài bài chửi chế độ một
cách bóng bẩy, xa xôi đến mức quần chúng cũng chẳng để ý tới. Và nực cười là
chính lũ gác cửa tòa nhà văn nghệ của chúng vì la lối nên mới làm cho người đọc
hiểu ra cái mặt thật của ông Lý Toét!!!
Về danh nghĩa, có hai đảng Dân chủ và Xã hội, nhưng
lãnh đạo chủ yếu lại là “chi bộ cộng sản” nằm vùng với mấy con rối như Nghiêm
xuân Yêm, Trần đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Đỗ xuân Sảng v.v… tất cả đều không còn
gan và mật và bộ óc thì chín phần mười được thay bằng bã đậu phụ!!!
Cho nên hai đảng Dân chủ và Xã hội được dùng làm đồ
trang trí cũng như làm “bông hoa mướp vàng” để câu mấy chú ếch làm chính trị ở
trong Nam như Lâm văn Tết, Dương quỳnh Hoa, Trương như Tảng, Trần bửu Kiếm v.v…
như nhóm gọi là “thành phần thứ 3” ở Vạn Hạnh v.v… hay cha con Ngô bá Thành,
tụi “phản chiến” như anh em Hoàng phủ ngọc Tường, Trịnh công Sơn, Lê văn Hảo,
Miên đức Thắng v.v…
Tập đoàn Việt gian cộng sản, dưới sự chỉ đạo của tên
gián điệp dày dạn Hồ chí Minh, trong thực tế đã vô sản hóa toàn dân miền Bắc,
nô lệ hóa từ trí thức tới tiểu thương buôn thúng bán mẹt, mua bán ve chai, cho
tới cả các đảng phái không cộng sản, nhân sỹ và các hội đoàn tôn giáo. Cho nên
Hồ không cần ghi vào hiến pháp 1959 của hắn “sự độc quyền lãnh đạo”. Và, cũng
không thể ghi như thế được, vì đó là cái “lỗ hổng” để Hồ lừa những chú dế mèn ở
miền Nam, có bệnh đứng núi này trông núi nọ, làm cái chuyện “dế mèn phiêu lưu
chính trị”!!!
Còn ở miền Nam Việt Nam sau 1975, lũ đệ tử Việt gian
cộng sản của Hồ phải đương đầu với tinh thần làm chủ, ý chí bất khuất của nhân
dân miền Nam, sau khi đã được sờ cái “thiên đường XHCN ở miền Bắc” không chỉ
qua đường lối cai trị mà bằng “những con người mới XHCN” từ miền Bắc vào, trông
na ná như người đói của Thái-bình năm Ất Dậu (1945) bỏ làng đi tìm miếng ăn!
Các tổ chức chống cộng ồ ạt nổi lên hệt như các phong
trào nổi lên của người Việt Nam thời Bắc thuộc và thời thực dân Pháp. Tổ chức
nào cũng có tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị và dùng biện pháp vũ trang phục
quốc.
Những hình ảnh lịch sử của Nguyễn Tri Phương, Phan
Thanh Giản, Hoàng Diệu được tái lập qua các anh hùng của lực lượng vũ trang của
Việt Nam Cộng Hòa như liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê
Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long v.v…
Những hình ảnh hiên ngang, tự hào là quân nhân Việt
Nam Cộng Hòa, ngay trong hàng rào kẽm gai, ngay trước họng súng của cai ngục
công sản như tấm gương của trung úy Võ Văn Tưng (Hòa Hảo, cùng ở trại giam ngày
đầu tiên với trung tướng Huỳnh văn Cao) không phải là cá biệt. Trong nhà tù của
Việt gian cộng sản có rất nhiều tù nhân mới ở lứa tuổi 16, đã tự nguyện vùng
lên lật ách cộng sản. Tuy ngoài mặt bọn công an, báo chí của tập đoàn Việt gian
cộng sản “chế giễu” những tổ chức đó, nào là “ngoan cố”, nào là “vài mống”, nào
là “rổm”, đủ thứ ngôn ngữ mà bọn chúng chế biến được. Nhưng, thực ra chúng hiểu
rằng những đốm lửa quật cường đó tuy “nhỏ”, “lẻ loi”, nhưng lại đều khắp, và
nếu có “thời cơ”, sẽ có thể thành bão lửa. Đấy là lý do các đệ tử của Hồ phải
xóa sổ hai đảng Dân chủ và Xã hội, ghi vào hiến pháp của chúng sự độc quyền
đảng trị của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Nghĩa là chúng có thể nới lỏng về kinh tế (chấp nhận
thành phần kinh tế tư nhân); nới lỏng về văn hóa (văn thơ mùi mẫn, bớt sắt
máu). Nhưng về chính trị và tư tưởng thì chúng vẫn ngoan cố bám giữ và độc
quyền nắm lực lượng vũ trang (lính, công an và hải quan).
Nói tóm lại, những dẫn chứng ở trên đã chứng minh
rằng, trước 4-1975, ở miền Bắc Việt Nam:
- Không có cá nhân hay tổ chức nào tranh quyền lãnh
đạo với tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh (ngoại trừ đấu đá nội bộ giữa “xét lại”
và “giáo điều” thì cả hai vẫn là cộng sản);
- Cần thiết giấu mặt “độc tài đảng trị” để lừa miền
Nam Việt Nam (và cả quốc tế nữa).
Cho nên Hồ không cần ghi vào hiến pháp của hắn điều
khoản độc tài đảng trị.
Còn sau tháng 4-1975, ở miền Nam Việt Nam:
* Các tổ chức Phục quốc nổi lên như nấm, cùng có mục
tiêu chung là “lật đổ tập đoàn Việt gian cộng sản, xóa bỏ chế độ cộng sản và
hệ lụy của nó”;
* Đặc biệt sự hình thành của cộng đồng người Việt ở
hải ngoại là thách đố thường trực đối với tập đoàn Việt gian cộng sản. Tuy chưa
thống nhất được lực lượng do âm mưu của tập đoàn Việt gian cộng sản cài người
nằm vùng đánh phá, gây chia rẽ trong cộng đồng, làm phân hóa lực lượng, giành
quyền kiểm soát cộng đồng. Nhưng sức mạnh của cộng đồng cả kinh tế, cả văn hóa,
cả chính trị đã lay động sự lãnh đạo của tập đoàn Việt gian cộng sản khiến
chúng bị động và cũng bị phân hóa lực lượng, ngày càng lộ nhược điểm chủ yếu;
* Cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa cả tinh
thần và cả vật chất cho nhân dân quốc nội vùng lên.
Nhờ sự đấu tranh bền bỉ của cộng đồng người Việt ở hải
ngoại mà “toàn bộ” các cá nhân, các nhóm bất đồng chính kiến ở quốc nội mới
thoát ra ẩn số, được quốc tế biết đến, được các giải thưởng quốc tế, cho nên
tập đoàn Việt gian cộng sản không dám “khát máu”, uyển chuyển trong đàn áp. Sự
ra đời nghị định 31/CP do Võ văn Kiệt ký, sau Phan văn Khải bổ túc lại. Vì thế,
ít ra những người bất đồng chính kiến cũng an tâm chịu tù, quản chế nhưng không
sợ bị thủ tiêu hoặc tử hình.
Đó là lý do chủ yếu tập đoàn Việt gian cộng sản phải
dựa vào hiến pháp của chúng “điều 4” và “bảo vệ nó như con ngươi của mắt”.
Việc “đưa điều 4 vào hiến pháp” không hề trái với tư
tưởng chủ đạo của Hồ như một số cây bút “đấu tranh” cố tình hư cấu chạy tội cho
Hồ. Vì Hồ luôn căn dặn đệ tử:
* Không được chia quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang;
* Phải xây dựng thành công CNXH;
* Yêu nước là yêu CNXH.
Thử hỏi:
Tại sao tập đoàn Việt gian cộng sản phải “độc quyền”
lực lượng vũ trang?
Bởi “độc quyền” lực lượng vũ trang thì mới thực hiện
được trọn vẹn sự độc tài đảng trị. Cho nên dù có như thời của những năm 50, sau
Hồ khi nắm trọn được lính và công an, thì trên thực tế Chính phủ Liên hiệp đa
đảng chẳng còn quyền gì. Đó là một cuộc đảo chính âm thầm.
Và, cũng vì “độc quyền” nắm giữ lính và công an nên Hồ
mới cho bắt “nhóm xét lại” dễ như thò tay vào túi vậy.
Nhưng có một ý nghĩa quan trọng hơn cả là phải dùng
lính và công an để bắt nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, có nghĩa bản thân Hồ
(và bây giờ là lũ đệ tử) cũng hiểu cái chủ nghĩa xã hội chẳng có ích lợi gì cho
nhân dân Việt Nam mà chỉ đem lại sự hưởng thụ trọn vẹn cả tinh thần cả vật chất
cho Hồ và tập đoàn Việt gian của hắn mà thôi.
Một câu hỏi khác:
Tại sao phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội?
Trước hết phải nói đến nội dung của chủ nghĩa xã
hội, mà như bọn Việt gian cộng sản truyên truyền rằng:
1- Có năng xuất lao động cao hơn hẳn năng xuất lao
động của chủ nghĩa tư bản;
2- Không có cảnh người bóc lột người;
3- Làm theo năng lưc, hưởng theo việc làm;
4- Tài nguyên đất nước, tài sản xã hội đều thuộc quyền
sở hữu của toàn dân.
Cái nội dung trên, thực tế như son phấn tô điểm trên
mặt gái điếm hay kiểu “nước vỏ lựu, máu mào gà” mà cụ Nguyễn Du viết trong
truyện Kiều mà thôi. Vì chưa thấy đạt được một điểm nào ngay chính tại Nga-xô
cũ.
Còn cái nội dung đích thực chính là:
* Bần cùng hóa toàn dân. Toàn bộ tài nguyên đất nước,
tài sản xã hội, toàn thể nhân dân đều thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Việt gian
cộng sản. Có như vậy chúng mới “tự do” thực thi chiến lược bành trướng của mẫu
quốc đỏ. Và, gần đây nhất (1999-2001) chúng đã dâng đất, dâng biển cho “anh hai
bá quyền Trung cộng” của chúng, coi nhân dân chỉ là con số “0”!!!
Bốn cái nội dung mị dân nói trên bị lộ vở, vì ngay
Nga-xô và khối Đông-âu tìm mãi để cuối cùng trở lại lối mòn của kinh tế thị
trường! Cho nên bây giờ chúng cố moi ra cái gọi là kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN. Đó là tiếng lóng của mafia đỏ cộng sản, mà nghĩa đen của nó là:
* Kinh tế thị trường là nới lỏng cái thòng lọng kinh
tế, cho họ hàng tay chân dựa vào sự nới lỏng đó mà bung ra làm kinh tế, tự nuôi
lấy thân mà phục vụ tập đoàn Việt gian cộng sản, tha hồ bóc lột dân;
* Định hướng XHCN là tất yếu tập đoàn Việt gian cộng
sản phải là chủ nhân của lực lượng vũ trang, chủ nhân của tài nguyên đất nước
và chủ nhân của đám “quan lại đỏ, cường hào đỏ” và chủ nhân của toàn dân.
Sự khác biệt với trước kia là xã hội có thêm giai cấp
tư sản đỏ và địa chủ cường hào đỏ là chỗ dựa của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Nhân dân lao động bao gồm công nhân, nông dân, tiểu chủ trở thành đối tượng bị
bóc lột. Bản thân những tên trong trung ương mafia đỏ và tay chân thân cận
thành “cá mập đỏ” và bọn chúng cấu kết thành “tập đoàn tài phiệt đỏ”, chia sẻ
quyền bóc lột nhân dân Việt Nam, tài nguyên của Việt Nam với các tập đoàn tài
phiệt quốc tế.
Câu hỏi chót là: Tại sao yêu nước lại phải yêu CNXH?
Bộ trước khi tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh mang bệnh
Aids XHCN về Việt Nam thì ở Việt Nam không có khái niệm yêu nước và không có ai
yêu nước sao? Cho nên
đây cũng là lối nói tiếng lóng của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mà nghĩa đen
là: Ai không yêu tập đoàn Việt gian cộng sản là bị khép tội không yêu nước.
Và tất nhiên không yêu nước thì phải giết đi hoặc cho vào tù khổ sai. Tại
sao lại có ý nghĩa như vậy? Bởi vì cái gọi là CNXH thì chưa ai biết nó “đầu dê
mình ngựa” ra sao, ngay tại cả Nga-xô trước đây (nói CNXH với bốn cái nội dung
trên). Cho nên chỉ còn lại cái gọi là “đảng cộng sản” là những kẻ tự hào cho là
biết hình thù cái CNXH đó như thế nào và sẽ lãnh đạo mọi người đi tìm CNXH. Chứ
các đảng khác như ở Việt Nam thì có VNQDĐ, Đại Việt, Duy Dân, Phục Quốc v.v…,
thế giới có các đảng Cộng hòa ở Mỹ, Bảo thủ ở Anh, Dân chủ Tự do ở Nhật v.v…,
chẳng đảng nào biết và tìm cái gọi là CNXH.
Bởi thế, tập đoàn Việt gian cộng sản cố tình giáo dục
thiếu nhi như chúng nêu lại “mục tiêu giáo dục đào tạo” nhân cái gọi là kỷ niệm
60 năm thành lập đoàn thiếu niên tiền phong, là:
“Một lòng một dạ trung thành với đảng (tức cộng
sản)… phấn đấu trở thành cháu ngoan bác Hồ, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ
chí Minh”!!! (Nhân dân điện tử, số 773, chủ nhật, 13-5-2001).
Cho nên “tư tưởng lưu manh của Hồ” trong câu: yêu nước
là yêu chủ nghĩa xã hội, muốn căn dặn đệ tử rằng: Ai chống đảng cộng sản là
chống chủ nghĩa xã hội, ai chống chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là phản
quốc nên cứ việc giết thẳng tay hoặc cho đi tù khổ sai chung thân.
Thử tính xem, từ ngày Hồ chí Minh và tập đoàn Việt
gian cộng sản của hắn đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, tiếm quyền thống
trị, bọn chúng đã “giết” và “bỏ tù” bao nhiêu chục triệu nhân dân Việt Nam.
Cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam do Hồ phát động cũng chính nhằm mục đích
trừng phạt nhân dân miền Nam vì không yêu CNXH, tức không “yêu nước” nên bị Hồ
gọi là “ngụy”, là “phản động”.
Vì thế, người Việt ở hải ngoại nên cảnh giác lối chơi
chữ và nói tiếng lóng của tập đoàn Việt gian cộng sản. Bị dụ khị bởi cụm từ
“kinh tế thị trường” nhào về Việt Nam làm ăn (dù động cơ “chụp giựt” hay “muốn
xây dựng đất nước”), coi chừng cái “”định hướng XHCN” sẽ nuốt cả vốn lẫn lãi và
có khi cả thân xác nữa đấy!!! (vì XHCN là vô sản hóa, là nô lệ hóa). Lúc há
miệng kêu, chúng sẽ nói rằng chúng đã ghi rõ là “định hướng XHCN” đấy thôi; y
như bài học hơn hai mươi năm trước đây của cái gọi là “duy trì năm thành phần
kinh tế” và “đóng tiền đi học tập 10 ngày”.
Hiện nay, tập đoàn Việt gian cộng sản đã thống nhất
cấu kết với nhau dâng đất dân biển cho Trung cộng. Đây là gót chân Archill của
chúng. Mọi cây bút có trách nhiệm của quốc nội và hải ngoại cần tập trung vạch
mặt Việt gian dâng đất, dâng biển cho Trung cộng của chúng, từ khi Hồ còn cầm
quyền đến nay là Nông đức Mạnh, có sự nhất trí của tất cả các đời “tổng bí thư”
của chúng là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và
Nông đức Mạnh, cũng như tất cả những tên từng là thành viên chính trị bộ của
chúng, từ thời Hồ đến nay.
Nếu nhân dân quốc nội, nhất là nông dân, được giải
phóng khỏi cái “thần tượng” Hồ chí Minh thì họ sẽ thấu hiểu sâu sắc rằng muốn
có tự do, cơm no, áo ấm cho bản thân và các thế hệ con cháu, thì chỉ có một con
đường duy nhất: đó là nỗ lực thay đổi thể chế xã hội hiện nay ở Việt Nam, để
cho nhân dân thực sự là chủ, thực sự tự do bầu người đại diện để quản lý đất
nước và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Hồ là chỗ dựa lý luận của tập đoàn Việt gian cộng sản
đương quyền hiện nay. Bọn chúng đã và đang nhét một lô các luận điệu mị dân,
các bánh vẽ vào cái gọi là “tuyển tập Hồ chí Minh”. Cái gì Hồ lỡ miệng nói láo
thì chúng bỏ đi hoặc sửa lại cho phù hợp với hiện tại. Chúng còn cố tình bịa
thêm vào cái gọi là “kho tàng” của “tư tưởng Hồ chí Minh” khiến những nhà
nghiên cứu, quen như ở các nước thuộc thế giới tự do, dựa vào đống tài liệu giả
đó thì làm sao hiểu được sự thật, và mất thì giờ như mấy nhà giả kim thuật thời
trung cổ vậy.
Cho nên các ngòi bút ở hải ngoại cần tập trung đánh
vào nền tảng lý luận của tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền là “tư tưởng
Hồ chí Minh”, là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” do mấy cây bút “chống đối” hư cấu.
Nhiều bộ óc cả nể đã đưa ra những lập luận mơ hồ, nước
đôi. Họ không dám (mà cũng có thể là không nỡ) tách bạch cái đúng và cái sai
của những ngòi bút “chống đối” hoặc “ly khai”.
Thí dụ: Ông Bùi Tín
Trong các sách của mình và các bài viết, có công vạch
phần nào “mặt thật” của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Nhưng ông cũng
để lộ ra nhiều “mặt giả”. Ngay bản thân ông ta, cũng chưa thấy cái
sai (kiểu cộng sản) khi ông ta hăm hở viết cuốn “Mặt thật các tướng ngụy
Sài-gòn”, với nhiều tình tiết của ngòi bút được đào tạo và nhuần nhuyễn
“bôi đen, tô hồng”. Ông Bùi Tín có thể bôi bẩn trọn vẹn các tướng lãnh của
QLVNCH mà chắc chắn hoặc ông chỉ nghe nói hay “hư cấu”. Còn với các tướng ngụy
cộng sản, ông đã được chung sống với chúng thì chưa thấy ông vạch “mặt thật”
hết bọn chúng ra, kể cả Võ nguyên Giáp.
Ông Trần Độ
Vẫn còn tự hào là môn đồ trung kiên của Hồ, vẫn chưa
thấy cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là một vết đen trong đời ông, từ một
người yêu nước biết thành kẻ giết dân mà ông đầy tự hào.
Ông Nguyễn thanh Giang
Có nhiều mâu thuẫn trong viết và trả lời phỏng vấn
khiến lúc ông đỏ, lúc xanh, không rõ ràng. Gần đây nhất, trong cuộc trả lời
phỏng vấn của đài Little Saigon, ông nói “lãnh đạo cộng sản bị Trung cộng
lừa”, trong vụ ký kết hiệp định biên giới Việt-Hoa. Nội dung đó là sự xuyên
tạc trắng trợn, bây giờ cũng nguy hiểm và càng nguy hiểm hơn cho thế hệ Việt
Nam tương lai. Vì căn cứ vào lời phát biểu của một “nhân vật chống đối nổi
tiếng” cả trong và ngoài nước; một người có bằng cấp tiến sỹ, nghĩa là “dùng
chữ chính xác”, “ăn nói có suy nghĩ” thì như vậy, tập đoàn Việt gian cộng sản
vô tội, chúng bị lừa nên chúng chỉ là nạn nhân thôi.
Thời Hồ cầm quyền, tập đoàn Việt gian cộng sản đã dâng
đất, dâng biển cho Trung cộng. Chứng cớ rành rành với chữ ký của Ung văn Khiêm
(1956) và Phạm văn Đồng (1958). Còn hiện nay, từ 1997 cho đến khi đặt cọc mốc
đầu tiên tháng 12-2001, trong 4 năm trời tin đi mối lại với đủ bộ mặt đặc sệt
Việt gian là Nguyễn văn Linh, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu,
Nguyễn mạnh Cầm, Trần đức Lương, Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An thì thọt sang
Tàu, lén lút ký, lén lút thông qua, bất chấp mọi tiếng nói cảnh tỉnh của từ cụ
Đỗ việt Sơn, đến luật sư Lê chí quang và .v.v…, cả trong và ngoài nước. Xin hỏi
ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang rằng: Quá trình hành động của tập đoàn Việt
gian cộng sản như vậy là chúng ngoan cố và cố tình dâng đất, dâng biển cho
Trung cộng “hay là chúng bị lừa”. (Nghĩ rằng lòng trung thực sẽ thúc đẩy
ông lên tiếng cải chính vì chót lỡ lời). Trò “ảo thuật” chỉ
qua mắt một số nào đó vô tình, nhưng không thể qua mắt được số đông, trước sau
cũng lộ vở. Chuyện đời là như vậy!
Tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền tiếp tục thần
thánh hóa họ Hồ.
Một số ngòi bút “chống đối” ở quốc nội và hải ngoại
tiếp tục đề cao họ Hồ qua huyền thoại và hư cấu ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí
Minh”.
Hai bên rõ ràng cùng thờ một chủ. Hay nói cách khác
là giống như xưa kia tờ Nouvel Observateur đã vẽ hý họa cuộc đấu đá của “xét
lại” và “giáo điều”. Có nghĩa họ là anh em cùng cha khác mẹ.
Một bên là định hướng xã hội chủ nghĩa và độc quyền
đảng trị.
Một bên “hứa” đa đảng (như Hồ thuở 1945-52) và xây
dựng chủ nghĩa xã hội (kiểu mô hình Hồ chí Minh đã thể hiện qua “cải cách ruộng
đất”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” và v.v…). Hình thù vẫn là
cái bánh vẽ của người chưa được cầm quyền, giống hệt khi Hồ còn chưa nắm được
quyền lực trọn vẹn. Và với cái “chủ nghĩa Hồ chí Minh” chỉ đạo, họ sẽ hành sử
như thế nào là điều có thể thấy được rồi.
Cộng đồng người Việt hải ngoại nên ôn lại bài học lịch
sử đã qua. Nếu không sẽ là câu chuyện gậy ông đập lưng ông. Trong khi chúng
ta ủng hộ, cổ võ, bảo vệ những cây bút đeo nhãn “chống đối” mà không phê phán
những quan điểm sai trái của họ, thế là chính chúng ta đánh bóng họ từ A đến Z,
làm cho họ thoát ra ẩn số. Có uy tín cả trong nước, cả quốc tế. Hầu hết họ được
giải thưởng quốc tế hoặc được đề nghị xét tặng giải thưởng quốc tế là hoàn toàn
do công sức của cộng đồng người Việt hải ngoại. Còn người Việt ở hải ngoại có
biết bao người bị bỏ quên như Lý Tống, Hoàng cơ Minh, Võ đại Tôn, kể cả những
người đã hy sinh như Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và bao ngòi bút
đấu tranh không mệt mỏi như Nguyễn Văn Canh, luật sư Nguyễn Văn Thắng, Tưởng
Năng Tiến, Đại Dương, Lê Hữu Mục, Võ Văn Aí, Phương Nam, Trần Bình Nam, Trần
Viết Đại Hưng, Trương Gia Phụng, Lâm Lễ Trinh, Đinh Từ Thức, Trực Ngôn v.v…
Thử tưởng tượng, vì tội ác dâng đất dâng biển cho
Trung cộng quá rõ ràng (chứ không phải bị lừa như tiến sỹ Nguyễn thanh Giang
nhận định), nên tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền đành lùi một bước. Giả
dụ là xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp của chúng (vì chúng vẫn còn độc quyền lực
lượng vũ trang, công an) và cho bầu lại quốc hội có giám sát quốc tế. Chúng ta
thử nghĩ xem, cũng giả dụ là ông Võ Đại Tôn và luật sư Nguyện Văn Thắng từ hải
ngoại về mà cũng được ứng cử thì số phiếu của 4 người như ông Võ Đại Tôn, luật
sư Nguyễn Văn Thắng với tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê, nhóm nào được
phiếu nhiều hơn.
Chắc chắn tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê sẽ
nhiều phiếu hơn. Và giả dụ là họ trúng cử vào quốc hội. Thử hỏi nếu tập đoàn
Việt gian cộng sản đưa ra thông qua cái chính sách mà chúng “đi theo con đường
của Hồ” thì các ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê sẽ chống hay ủng
hộ?
Chúng ta vì là “nạn nhân của con đường Hồ lựa chọn”
nên mới phải lưu vong ra nước ngoài. Có thể nào chúng ta quên bài học đó để
tiếp tục cho những người nhân danh “chủ nghĩa Hồ chí Minh” xỏ mũi dắt đi như
dắt trâu không?!!!
Tóm lại, tất cả những dẫn chứng được nêu trên nhằm
phản bác không chỉ “huyền thoại Hồ chí Minh” do Lữ Phương viết mà còn vạch trần
cái gọi là nội dung của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” (nếu gọi đó là chủ nghĩa) chính
là “chủ nghĩa đầu hàng bá quyền nước lớn, trước là Nga-xô và Trung cộng, nay là
Trung cộng”.
Mới đây, tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền dâng
đất, dâng biển cho Trung cộng là cái tất yếu phải như vậy, vì chúng đã được dẫn
dắt bằng “tư tưởng Hồ chí Minh” mà các cây bút “chống đối” ở trong nước đánh
bóng, nâng cấp thành “chủ nghĩa Hồ chí Minh”.
Xưa Hồ chí Minh dâng đất, dâng biển cho Trung cộng để
đổi lấy sự ủng hộ của Trung cộng trong việc xé bỏ hiệp định Genève 1954 về Việt
Nam, thực hiện nô lệ hóa nhân dân miền Bắc Việt Nam; mượn đường của Trung cộng
để chở vũ khí từ Nga-xô về cũng như mua vũ khí của Trung cộng, để xâm lược miền
Nam Việt Nam, tiến tới nô lệ hóa cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam, đặt ách
thực dân đỏ.
Nay lũ đệ tử của Hồ nắm quyền lãnh đạo tổ chức Việt
gian cộng sản của Hồ để lại, tiếp thu bài học bán nước của Hồ, đã trắng trợn
dâng đất dâng biển cho Trung cộng nhằm:
1- Dựa vào Trung cộng để đối phó với sự nổi dậy của
nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước.
2- Để chuyển tài sản bọn chúng đã bóc lột, ăn cướp
được, trong những năm cầm quyền, mà trước đây chúng gửi tại ngân hàng phương
Tây, nay gửi vào ngân hàng của Trung cộng. Như thế vừa bí mật vừa dùng ngân
hàng của Trung cộng để rửa tiền ăn cướp, tham nhũng, vừa đề phòng khi bị xét
xử, nếu tiền gửi ở phương Tây sẽ bị trả lại cho chính phủ phi cộng sản của Việt
Nam tương lai; còn gửi tại Trung cộng được Trung cộng cam đoan giữ an toàn. Và,
nếu ngày nào đó không xa, bị nhân dân lật đổ, chúng cùng gia đình và tay chân
có thể an toàn “cư trú chính trị”, sống cuộc đời vương giả ở Trung cộng.
Ngày nay, giới chức nào trong tập đoàn Việt gian cộng
sản cũng vơ vét được cả trăm triệu US đô-la. Những tên có trên một tỷ US đô-la
đã bị lộ (chưa kể của chìm hoặc tiền gửi chưa bị lộ) đều liên quan trực tiếp
đến việc dâng đất đâng biển cho Trung cộng, như:
- Nguyễn tấn Dũng, phó thủ tướng thường trực: 1 tỷ 480
triệu đô-la
- Phạm văn Trà, bộ trưởng quốc phòng: 1 tỷ 360 triệu
đô-la
- Phạm thế Duyệt, chủ tịch mặt trận “tổ cuốc”: 1 tỷ
173 triệu đô-la
- Lê khả Phiêu, nguyên tổng bí thư: 1 tỷ 170 triệu
đô-la
- Nguyễn mạnh Cầm, phó thủ tướng: 1 tỷ 150 triệu đô-la
- Trương tấn Sang, trưởng ban kinh tế: 1 tỷ 124 triệu
đô-la
- Phan văn Khải, thủ tướng: 1tỷ 200 triệu đô-la
(Theo tài liệu của cụ Hoàng cơ Thụy).
Loại bạc tỷ đô-la Mỹ như trên còn dài dài, vì phải
thêm tên tụi Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, anh em Lê đức Thọ, Mai chí Thọ; gia đình
Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn tiến Dũng và v.v… Mà con số tiền tỷ đô-la Mỹ đó cũng
mới chỉ là phần nổi bị lộ; chưa kể phần chưa bị lộ; chưa kể các bất động sản,
các cổ phần hùn hạp, vàng, hạt xoàn v.v… Ngay Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An bị
coi là chậm chân mà mỗi đứa cũng có ngót 150 triệu US đô-la, kể cả tên bộ
trưởng Lê minh Hương hoặc nguyên thư ký của Đỗ Mười là Lê xuân Tùng.
Cần lưu ý rằng tất cả số tiền chúng có đều vơ vét
trong khoảng chục năm hoặc hơn chục năm mà thôi. Thật là kỷ lục!!!
Chính vì đống đô-la Mỹ bộn xộn như vậy nên bọn chúng
đồng tâm nhất trí để “bị lừa”, như chữ nghĩa của ông tiến sỹ Nguyễn thanh
Giang, nhà “chống đối” nổi tiếng cả trong và ngoài nước Việt nam.
Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng: “Kẻ đã và đang bị
lừa là nhân dân Việt Nam. Và cũng chính nhân dân Việt Nam sẽ vạch mặt tụi lừa
đảo và cho chúng đi cải tạo cùng Hồ ở hỏa ngục!”
Một “huyền thoại về Hồ chí Minh” của Lữ Phương chứ vạn
“huyền thoại về Hồ chí Minh” cũng chỉ đã, đang và mãi mãi sẽ là bọt bèo, làm
sao cứu được sự chết đuối của tập đoàn Việt gian cộng sản!!!
Xin hãy chờ xem!
Xuân Nhâm Ngọ – 2002
Việt Thường
____________________
Chú thích:
- Sự tích: Con yêu râu xanh ở Việt Nam, do cơ sở Quật
Khởi, ở Hoa kỳ, ấn loát và xuất bản, năm 2002.
- Quý độc giả có thể tìm mua ở nhà sách “Văn Bút”,
Little Saigon, Hoa kỳ. Hoặc có thể liên lạc với Nguyệt san Người Dân, địa chỉ:
P.O. BOX 2674 – Costa Mesa – California 92628 – USA.
Trân trọng cảm ơn quý độc giả đã dành thì giờ cho
quyển sách này.
Thân kính,
Việt Thường
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen