***
Việt Thường
Bài 10
Mặc dù có nhắc đến việc Hồ lấy bút danh Trần dân Tiên
để tự đánh bóng (từ 1948) cùng với các bút danh khác như T. Lan, và có thể Hồ
là người đầu tiên tự bốc thơm trước khi bầy nô lệ cung đình của Hồ làm cái việc
sản xuất các “tụng ca” về Hồ, thế mà Lữ Phương đến tận năm 2001 này còn tự mâu
thuẫn trong đề cương về “Huyền thoại Hồ chí Minh” khi Lữ Phương viết rằng: “Nhưng
do đảng cộng sản Việt Nam không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy (tức công
lao chống thực dân) mà còn vượt lên thời gian tồn tại muôn năm nên hình ảnh của
Hồ chí Minh phải được tô vẽ sao cho thật lý tưởng, thật phi thường. Và đó cũng
là chính sách tạo thần tượng của guồng máy.”
Theo Lữ Phương, nghĩa là Hồ vô tội. Việc đề cao
Hồ không do tự Hồ bốc thơm chính mình, mà do “chính sách tạo thần tượng của
guồng máy”! Vậy Lữ Phương hiểu guồng máy là cái gì, là ai? Sợ tập đoàn mafia đỏ
chưa hiểu, Lữ Phương hạ bút nói rõ hơn: “Từ bên ngoài, nhiều người đã thấy
khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh
cách mạng của ông!!!” Chắc chỉ có một mình me-xừ mánh mung, cơ hội chủ
nghĩa là Lữ Phương mới thấy Hồ buồn phiền không muốn “đám âm binh cách mạng”
của Hồ nịnh Hồ(?)! Chịu không hiểu nổi ý của “nhà chính khách, nhà trí thức”
dzô bưng! Hẳn là Lữ Phương cố tình đưa ra lập luận này để bên dưới đó có thể
thuyết phục được người đọc rằng “tin tôi đi”, Hồ vô tội mà, tất cả chuyện giết
nhân dân miền Nam Việt Nam, xâm lược miền Nam Việt Nam, theo Trung cộng đều là
lỗi của bọn Lê Duẩn, kể cả âm mưu đề cao Hồ!!! Chắc chắn cả đời Lữ Phương cũng
chỉ đọc và nghe nói về Hồ ở một giới hạn cực nhỏ mà thôi. Nếu Lữ Phương được dự
những kỳ họp có Hồ thì sẽ hiểu hơn chút nữa, đầu óc bớt tối tăm hơn. Thử giở
lại những thước phim tài liệu về Hồ để thấy, dịp sinh nhật Hồ, tổ chức tại “phủ
chủ tịch”, Hồ đứng nhìn ngang nhìn ngửa như dưới mắt không có ai, còn anh già
Tôn đức Thắng lụ khụ thay mặt “đảng và chính phủ” chúc thọ Hồ, khúm núm như
“cừu trước sói”, đằng sau là một lũ mặt hơn hớn, nụ cười nịnh trên mỏ. Đó là:
Duẩn, Chinh, Đồng, Giáp, Thọ, Nghị, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập, Hoàng minh
Giám và v.v…
Cho nên, một mặt Hồ và Duẩn vẫn ký vào tuyên bố chung
của “81 đảng”, một mặt Hồ vẫn bật đèn xanh cho bọn Duẩn, Chinh thì thọt họp với
Trung cộng làm ra vẻ tán thành việc Trung cộng định lập ra một “quốc tế mới” để
phủ nhận ngôi vị “anh cả” của Nga-xô.
Cái sự đi gần quan điểm “giáo điều” của Trung cộng đã
khiến Hồ tiếp tục công cuộc “xâm lược miền Nam Việt Nam” có nhiều thuận lợi
hơn. Đối ngoại thì được Trung cộng viện trợ súng đạn và mọi nhu yếu phẩm, kể từ
cái kim khâu đến cái bô đi ỉa của trẻ em; rồi từ gạo thịt cho đến lê, táo, nho,
rượu, thuốc lá, kem đánh răng v.v… Đối nội thì tăng cường đàn áp (tức nắm vững
chuyên chính), vì theo lệnh Hồ, Trường Chinh mới nhân danh chủ tịch quốc hội ký
“nghị quyết 49/NQ/TVQH, ngày 20-6-1961 cho phép bắt đưa đi tù khổ sai (núp dưới
cụm từ “cải tạo”) tất cả những người không thích hợp với chế độ mafia đỏ Hồ chí
Minh, không cần xét xử, chỉ qua đề nghị của công an đường phố.
Với lệnh “khổ sai” này, họ Hồ đã làm cho toàn thể nhân
dân miền Bắc Việt Nam khi ấy “sợ vãi đái trong quần”, và mọi người chỉ còn hai
con đường để chọn:
1) hoặc đi vào tù để lao động khổ sai không thời hạn;
2) hoặc ngoan ngoãn, ở thành thị thì nộp nhà cửa, tài
sản; gia nhập hợp tác xã tiểu thủ công hay thương nghiệp; hoặc đi công trường,
lâm trường, nông trường; ở nông thôn thì phải vui vẻ thi hành cái gọi là “hợp
tác hóa nông nghiệp”. Và, cũng là sẵn sàng vào ngụy quân để xâm lược miền Nam
Việt Nam.
Trung cộng bỏ tiền của ra cho họ Hồ thì tất nhiên cũng
phải đòi lại cái gì chứ. Cho nên, cuối năm 1963, Hồ cho Lê Duẩn cầm đầu đoàn
mafia đỏ Việt Nam, cùng Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan (đại
sứ của ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh) sang Tàu bàn về việc cho ra đời cái
gọi là “quốc tế cộng sản” Mao-ít. Thảo luận dài dài, nhưng rồi không đi đến đâu
và cái “quốc tế Mao-ít” đó bị sẩy thai. Chỉ có lú lẫn mới không thấy được nước
cờ của Hồ. Vì đoàn có 4 mống thì ba thằng thân Trung cộng là Trường Chinh,
Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan, điều này tất nhiên vừa lòng Trung cộng.
Nhưng Lê Duẩn là trưởng đoàn lại là “bí thư thứ nhất” nên hắn quyết định
(tất nhiên là lệnh của Hồ) để “về nước bàn lại”. Cái sự bàn lại ấy là sự đu dây
của Hồ rất điệu nghệ.
- Không có chuyện ủng hộ Trung cộng để đẻ ra cái “quốc
tế Mao-ít”;
- Nhưng để “tế nhị” với việc “hứa lèo” việc ủng hộ cho
ra đời “quốc tế Mao-ít”, nên Hồ giao cho Trường Chinh thảo cái gọi là nghị
quyết 9 (cuối 1963), nghĩa là ”đi theo con đường của Trung cộng”, trái với nghị
quyết của đại hội 3 cũng như Tuyên bố chung của 81 đảng mafia đỏ (1960). Và,
tháng 1-1964, tại câu lạc bộ Ba-đình, được phép của Hồ, Trường Chinh họp với
các cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ, nói thẳng thừng rằng đường lối đối
nội và đối ngoại của mafia đỏ Việt Nam nhất trí với Trung cộng.
Về chuyện nghị quyết 9 này, có mấy người “ly khai” có
câu chuyện làm quà cho đồng bào hải ngoại (và cả tuổi trẻ nữa) rằng Hồ mấy lần
dơ tay xin phát biểu nhưng bị Lê đức Thọ át đi không cho nói. Còn một chuyện
khác thì kể là trước khi họp trung ương mafia đỏ về nghị quyết 9, Lê Liêm có
lên gặp Hồ và phản đối nghị quyết 9, Hồ nghe rồi bảo Lê Liêm khi họp cứ phát
biểu ý kiến của Lê Liêm, có gì Hồ sẽ phát biểu sau (ý là ủng hộ Lê Liêm). Thế
rồi Lê Liêm phát biểu trong cuộc họp, bị Lê đức Thọ, Trường Chinh xài xể cho
một trận, Lê Liêm đưa mắt nhìn Hồ “cầu cứu” thì Hồ lờ đi, không nói gì cả. Và,
Lê Liêm cho rằng Hồ sợ (người viết sách diễn tả như vậy).
Nếu quả chuyện trên là có thật thì việc cho rằng Lữ
Phương ngu dốt khi sao chép lại (kể cả của Vũ Kỳ, thư ký của Hồ) để tin rằng Hồ
“bị cho ra rìa” có hơi quá chăng? Vì ngay Lê Liêm, một ủy viên dự khuyết của
trung ương mafia đỏ mà còn ngu lâu và quáng gà nữa là (nếu chuyện kể trên là có
thật).
Xin nhớ cho rằng, cái cuối năm 1963 đó, Hồ còn khỏe
mạnh, mập như heo, mặt đỏ au như nhuộm phẩm, giọng còn sang sảng, sáng chiều
tập thái cực quyền, và hắn vẫn number-one khi ấy, nghĩa là: chủ tịch đảng kiêm
ủy viên chính trị bộ mafia đỏ; chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội; chủ tịch
hội đồng quốc phòng, nghĩa là hắn có quyền “veto” tuyệt đối!
Nguyên tắc làm việc của mafia đỏ là: mỗi lần cần họp
trung ương mafia đỏ để ra một quyết nghị nào đó thì trên thực tế cái nghị quyết
ấy đã được thảo ra ngay sau khi có ý kiến của Hồ (có thể bàn qua với Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm văn Đồng). Nghĩa là nghị quyết đã thành văn bản trước. Sau
đó, trong hội nghị trung ương của chúng, chủ yếu là phổ biến cái nghị quyết đó
cho cái lũ gọi là thành viên trung ương mafia đỏ để thi hành. Nếu có cho thảo
luận thì cũng chỉ là chiếu lệ gọi là, để rồi gật hết. (Tận bây giờ vẫn còn như
vậy đấy thôi).
Lê Liêm quá ngu nên mới xin gặp Hồ để phản
đối. Vì Hồ mới là cha đẻ cái nghị quyết ấy. (Ngu thì chết là đúng rồi). Lê
Liêm quên rằng Hồ là ông chủ, còn từ Lê Duẩn trở xuống chỉ là tay sai của Hồ
theo thứ tự thang bậc mà Hồ ban cho.
Tính cách gian manh tàn độc của Hồ và quá trình bôn ba
trong nghề gián điệp, chuyên thủ tiêu mọi vật cản đường công danh của Hồ thì
phải nhớ rằng Hồ đâu phải “chúa chổm” của nhà Lê trung hưng mà để cho Lê Duẩn
làm cái việc của Trịnh Kiểm!!!
Thật khùng khi tin rằng Hồ giữ thực quyền như vậy mà
bị Lê đức Thọ lấn át, “bịt mồm”. Thế mà nay cái me-xừ Vũ Kỳ chỉ là gia nô của
Hồ, chưa bao giờ được cái chân dự khuyết trung ương mafia đỏ, vậy mà chẳng ai
dám bịt miệng. Vũ Kỳ cũng đang nuôi đứa con của Hồ với cô bé Nông thị Xuân (Hồ
hơn Nông thị Xuân gần 50 tuổi) đấy. Lữ Phương thử “điện thoại” hỏi xem hư thực
ra sao và cũng hỏi Vũ Kỳ xem hắn thấy “ông chủ Hồ chí Minh của hắn” có đạo đức
cách mạng tuyệt vời không? Và nếu quả chỉ có Lê Duẩn chủ trương xâm
lược miền Nam Việt Nam thì tại sao Lữ Phương dám nâng bi rằng Hồ
“tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại,
đã hoàn thành độc lập thống nhất”.
Các thế lực thực dân là ai, ngoài thực dân Pháp? Không có
ý kiến về vấn đề miền Nam, “tại sao Hồ lại có công thống nhất”?
Lữ Phương dùng lối viết hoa hòe hoa sói cố làm thật
giả lẫn lộn. Nếu ai vô tình không đọc kỹ thì dễ cho rằng Lữ Phương “chống đối
nhưng vô tư”. Nhưng đọc kỹ thì thấy Lữ Phương là loại “giả quân tử” cũng là
loại nâng bi có hạng đấy, tiếc chưa gặp thời. Tất nhiên bộ máy mafia đỏ sẽ đọc
kỹ nên chúng sẽ hiểu ẩn ý của Lữ Phương. Cái đó chúng ta chẳng quan tâm. Chúng
ta lo là thế hệ trẻ vì thiếu cuộc sống thực, chỉ dựa vào tài liệu kiểu của Lữ
Phương (ngòi bút phản kháng) chắc sẽ bị đeo đuổi ngay từ đoạn mở đầu (mà cũng
có nghĩa là khẳng định, là kết luận) của Lữ Phương rằng: “Hồ chí Minh là
nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc
thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến
đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập,
thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Việt Nam.
Không một bản “tụng ca” nào của tập đoàn mafia đỏ có
giá trị (vô tư) và phong phú như đoạn văn ngắn, nói trên, của nhà “trí thức yêu
nước” “Lữ Phương”!!! Ô la la!!!
Như thế, nếu quả có cái chuyện Hồ bị cấm phát biểu thì
cũng chỉ là bằng trò ảo thuật của một gián điệp bôn ba, từng trải, Hồ đóng kịch
lép vế khi thông qua nghị quyết 9 (tung tin là bị Lê đức Thọ o ép không cho
phát biểu) để giúp Hồ khỏi bị “anh cả Nga-xô” giận. Còn “anh hai Trung cộng”
thấy nghị quyết 9 được thông qua thì mừng quá, thế là ào ào chở súng, đạn, gạo
thịt qua cho Hồ thực hiện sự vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam.
Đến lúc đó (tức 1963) thì lại xảy ra câu chuyện về sự
đàn áp một số người “bảo lưu ý kiến chống nghị quyết 9 (nghị quyết Mao-ít)”. Có
thật là đã có cái chuyện gọi là “đòi hỏi dân chủ” ở trong đảng mafia của Hồ
không?
Trước khi bàn chuyện này, phải nói đến một vấn đề
khác, đó là: “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” của họ Hồ.
Sau khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, họ Hồ và
bầu đoàn nhếch nhác từ Việt-Bắc vào Hà-nội. Lập tức đại sứ quán Nga-xô chiếm cả
trường nữ học Félix Faure làm trụ sở, cùng một loạt các vi-la đồ sộ ở gần đó và
cả ở đường Nguyễn Thượng Hiền nữa. Như thế vẫn chưa đủ cho các “chuyên gia
Nga-xô” (thực chất là viên chức của bộ máy thực dân đỏ) ở, nên phải cấp tốc cho
xây thêm khu Kim-liên ở Hà-nội. Còn ở các tỉnh thì núp dưới cái tên là “nhà
giao tế”, “Anh hai Trung cộng” bị hạ phong hơn, nên chiếm tòa “thủ hiến
Bắc-Việt”, trước vườn hoa Canh Nông. Văn phòng trung ương mafia đỏ Việt Nam thì
chiếm toàn bộ trường Albert Sarraut. Hồ chiếm cái “biệt điện” tức phủ toàn
quyền cũ. Nhà riêng Phạm văn Đồng chiếm tòa nhà ở Khúc Hạo, liền tường với “sứ
quán Nga-xô”, đi bộ 2, 3 phút là tới chỗ của Hồ. Tóm lại, bộ máy quan lại
của Hồ và các “toàn quyền Nga-xô” và “phó toàn quyền Trung cộng” đều quây quần
với nhau chung một khu.
Năm 1960, đại sứ Nga-xô là thiếu tướng tình báo
Serbakov; còn của Trung cộng vẫn là thiếu tướng La quý Ba.
Nhân dân miền Bắc Việt Nam, sau hiệp định Genève 1954,
đúng là một cổ ba tròng: Nga-xô, Trung cộng và ngụy quyền Hồ chí Minh.
Cả Nga-xô và Trung cộng đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng
trong nhân dân miền Bắc Việt Nam. Những ngày cuối 1954, phong cách Trung cộng ở
thế thượng phong với hình ảnh ngụy quân cộng sản Hồ chí Minh ăn mặc, đi đứng
hệt Tàu cộng. Cả bộ sậu từ Hồ trở xuống đều mặc “bộ áo Mao-tsé-tủng” bốn túi,
màu cỏ úa sậm hoặc dạ đen cổ cao. Trong ngụy quân cộng sản thì sỹ quan áo bốn
túi, lính thì hai túi, giống hệt cảnh phân chia “cái bang” trong chuyện chưởng
của Tàu. Học sinh, giáo viên ở “khu học xá” bên Tàu về thì khăn mặt bông quấn
cổ, tên nào cũng có cái “quẹt” và cái đèn pin nhãn “Hồng kỳ” và số lớn còn đeo
khẩu trang (vệ sinh kiểu ba Tàu cộng lúc đó). Bọn chúng đi với nhau “xí ngổ, xí
koỏng” tiếng Tàu. Trông thật tội nghiệp, như một đàn chó hoang. Cả lính, cả
dân, cả học sinh của cái gọi là “vùng kháng chiến” từ Việt-Bắc cho đến Khu Bốn,
trông nhếch nhác như lính “Tàu ô” hồi sang Việt Nam năm 1945 vậy! Chúng đi từng
toán, nắm chặt tay nhau lóa mắt về đèn điện, về hàng hóa, về các món ăn, về
người của Hà-nội. Mặc dù lệnh của ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy là “nghiêm cấm
ăn uống ở các tiệm, mua bán hàng hóa và đến nhà dân Hà-nội, sợ bị đầu độc hoặc
bị ám hại v.v…” (sợ không?!!!). Nhưng chỉ một ngày sau cả lính, cả sỹ quan, cả
cái đám nhố nhăng ấy đều “chạm trán” nhau trong các tiệm phở, các nhà hàng, đến
làm quen các nhà dân, xin đủ mọi thứ, y như cảnh sau 4-1975, tụi ngụy quân
Hà-nội đua nhau chạy thục mạng vào Sài-gòn vậy. Có chút khác là Sài-gòn của
nhân dân miền Nam Việt Nam phong phú, đa dạng, vĩ đại gấp ngàn vạn lần Hà-nội
của 1954.
Hà-nội như rừng “cỏ linh chi” đã thức tỉnh các văn
nghệ sỹ qua cơn điên loạn của “rèn cán chỉnh quân”, “đấu tranh chính trị”, “cải
cách ruộng đất” v.v… để trở lại làm người, một người thực sự với mọi cảm xúc,
suy nghĩ bằng chính ngũ quan và cái đầu của mình. Vì thế mới có chuyện thi sỹ
Trần Dần vứt mẹ nó cái “đấu tranh giai cấp” đi, để yêu một cô giáo người công
giáo; thi sỹ Hoàng Cầm cũng quên luôn bài thơ sáng tác ca ngợi đấu tố trong
“cải cách ruộng đất” để trở về với chính tâm hồn thi sỹ lãng mạn của mình; Lê
Đạt, thư ký văn nghệ của Trường Chinh, thì thẳng tay rũ bỏ “cô vợ cố nông” mà
trong kỳ tham gia cải cách ruộng đất, nghe “rễ cố nông” đó tố khổ, đã nổi “tính
đảng” mà cưới đại “cái rễ tố láo” đó làm bạn đời và v.v… Đấy chính là nguồn gốc
của sự ra đời của “phong trào Nhân văn – Giai phẩm” (đúng nghĩa là đòi làm người
trở lại). Vì không muốn làm gia nô khuyển mã cho mafia đỏ Hồ chí Minh, nên tất
nhiên phải bị trừng trị theo đúng võ mafia đỏ, nghĩa là làm cho sống không nổi,
chết không xong.
Hệt như sau tháng 4-1975, Sài-gòn của Việt Nam Cộng
Hòa đã giải độc cho biết bao người từ phía Bắc vào, thuộc đủ mọi thành phần, từ
văn nghệ sỹ như Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, Xuân Quỳnh; nhà thơ đầy
can đảm Bùi minh Quốc; nhà trí thức “thứ thiệt” Hà sỹ Phu v.v… những người gần
cả cuộc đời theo mafia Hồ chí Minh như ông Nguyễn Hộ. Và, cả Nam cả Bắc ào ào
vượt biên, chẳng cứ người dân thường mà cả lực lượng chuyên chính của mafia đỏ
là công an và binh lính (tất nhiên cũng có bọn được đưa đi nằm vùng), kể cả
nhân sự trong cái “chính phủ” mà Lữ Phương đã mơ tưởng, như Trương như Tảng
chẳng hạn. Đến mức ngụy quyền cộng sản Hà-nội phải lúng túng, lúc thì “mở cửa”
lúc thì “đóng cửa” trở lại. Và chúng cũng lộ rõ bộ mặt của lũ cướp thực dân đỏ,
vơ vét tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam, bỏ tù hàng triệu người không xét
xử, hàng triệu người bị đuổi đi “kinh tế mới” (tức phát vãng). Cơ cấu xã hội và
kinh tế miền Nam bị tàn phá một cách khủng khiếp. Và, chúng lại thực thi con
đường của Hồ là làm nhiệm vụ “bành trướng chiến lược” của thực dân đỏ Nga-xô;
xâm lược Cam-bốt. Kết quả mẫu quốc thì sa lầy ở Afghanistan và đàn em của Hồ bị
chìm ở Cam-bốt. Và, quan trọng hơn cả là quan điểm của họ Hồ đối với “anh cả
Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” được sáng tỏ bằng chiến tranh ở phía Bắc với
Trung cộng bằng súng đạn và chiến tranh miệng qua Bạch thư của bộ ngoại giao
ngụy quyền Hà-nội do Nguyễn duy Trinh chủ biên. Cũng như năm 1978, Lê Duẩn dẫn
hầu hết các bộ mặt đen đúa của chính trị bộ mafia đỏ sang Nga-xô ký hiệp ước
còn tệ hơn hiệp ước Patenôte của nhà Nguyễn với thực dân Pháp. Đó là “Hiệp ước
hữu nghị và hợp tác toàn diện” với Nga-xô, và sau đó là Nga-xô làm chủ Cam-ranh
không tốn một xu và các mỏ dầu lửa ở miền Nam Việt Nam!!!
Đây là kết luận chính xác của trò đi dây của họ Hồ
giữa Nga-xô và Trung cộng, cũng chư việc Hồ chí Minh chỉ định Lê Duẩn là người
kế tục sự nghiệp Việt gian của hắn. Cùng với lũ người Việt mang nặng cái “uế
khí Trung cộng” đó là hội Hoa kiều ở Hàng Buồm và nhân viên, giáo viên, học
sinh của trường trung học Trung hoa, ồn ào mở tiệm sách, các quầy vỉa hè, bán
sách báo do Trung cộng sản xuất và ảnh các đầu đà của cái “đảng Trung cộng”,
lúc ấy gồm Mao, Lưu thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu ân Lai, Bành đức Hoài v.v… và cờ
Trung cộng được treo khắp nơi như để khẳng định “có ta đây” vậy.
Nga-xô không ồn ào như Trung cộng, ngoại trừ đoàn làm
phim người Việt, học từ Nga về, ăn mặc lối “Tây nhà quê”, đội cái mũ vải trắng,
các máy quay phim to và nặng như khẩu “bích kích pháo”, đi xe Podeba hoặc Gatt
bỏ mui vải, phóng ồn ào, luôn mồm “kha-rát-sô” với “nhiét-nhiét”. Có ngụy quyền
Hồ chí Minh phục vụ hết mình, nên các quầy sách lưu động, tiệm sách được bày
bán đầy cờ, ảnh các đầu đà Nga-xô như Lê-nin, Stalin, Malencốp, Bulganin,
Molotov, Kaganovitch, Micoian, Krúp-xcai-a (vợ Lê-nin), Jukov v.v…, và tất
nhiên là phải có ảnh hai “ông rậm râu” Mác và Engels!
Y như miền Nam Việt Nam sau 4-1975, miền Bắc Việt Nam
thời 1954 đó cũng bị ngụy quyền Hồ chí Minh chia rẽ bằng “dân kháng chiến” và
“dân tề” (ý nghĩa như “dân ngụy” vậy). Bên “dân kháng chiến” che đậy cái nghèo,
cái lạc hậu, cái thô lỗ bằng cách “tự cho mình là kẻ chiến thắng”. Còn “dân tề”
thì phân hóa thành ba loại:
1) Loại nằm vùng, cơ hội (như loại cách mạng 30 ở
trong Nam, sau 4-1975), cố tìm bằng được đôi “dép râu”, cái mũ lá, bộ áo màu cỏ
úa, có đứa còn đi may ngay bộ “đại cán 4 túi”, tóc tai lòa xòa, không đường
ngôi, tất bật đi làm cái chuyện “cơm nhà vác ngà voi”. Nhiều gia đình khổ sở vì
có chồng, con, anh, em loại này. Một kiểu “thành phần thứ ba” sau này.
2) Loại an phận, nép mình, lấy “của che thân”. Phần
lớn là công chức, nhà buôn. Cũng thay đổi cách mặc, áo cánh nhuộm màu gụ, trong
nhà thì “đồ cũ bày ra, đồ đẹp như hoa cất vào”. Nghĩa là phải “giả nghèo giả
khổ” thì mới yên thân.
3) Số rất ít, tỉnh ngộ trước cái bánh vẽ “độc lập, tự
do, hạnh phúc” thì vội tìm đường chạy vào Nam, hoặc không chạy được thì tìm cách
thích nghi, nằm quan sát và “hy vọng” có sự đổi đời, nhất là hy vọng ở cuộc
tổng tuyển cử hai năm sau đó, như hiệp định Genève 1954 về Việt Nam qui định!!!
Vài năm sau, phần lớn người Hà-nội bị đi kinh tế mới
(tức phát vãng) hoặc bị bắt cải tạo, chỉ còn lại người tứ xứ đổ về. Nhưng, cái
đất Thăng-long đã cải tạo lại những người tứ xứ đó, bớt phần cục cằn, khát máu,
nghĩa là giảm bớt cái “tính đảng”. Hà-nội trở thành nơi “dễ thở” hơn. Cho nên,
nếu tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam của những năm trước 1975, sau 1954, mà chỉ
loanh quanh ở Hà-nội, hoặc xa nữa là Hải-phòng hay Nam-định thì chẳng khác gì
cảnh “đi mua gà mà chỉ nhặt cọng lông đuôi”.
Trong cái hoàn cảnh đó, Hà-nội nổi lên cuộc “chiến
ngầm” giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”. Người miền Bắc quen dần cái
cảnh đưa tin trên báo Nhân dân của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh. Đó là sự
cân đối tin về Nga-xô và Trung cộng. Tỷ dụ, ở trang nhất chia đôi cho thật đều:
Nga-xô một nửa, Trung cộng một nửa. Không bên nào được hơn bên nào dù chỉ bằng
cái vảy móng tay!
Sau đó là sự ra đời của hai tổ chức:
1. Hội hữu nghị Việt-Xô;
2. Hội hữu nghị Việt-Trung.
Nhìn vào hai hội này thì thấy rõ sự trân trọng của
ngụy quyền Hồ chí Minh với mẫu quốc đỏ Nga-xô. Vì, chủ tịch “Hội hữu nghị
Việt-Xô” là Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ kiêm ủy
viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội. Còn cái “Hội hữu nghị
Việt-Trung” thì chủ tịch là một nhân sỹ “đã bị thiến” để làm kiểng “dân chủ”.
Đó là cụ Bùi Kỷ (thân phụ của ông Bùi Diễm), trước 1945 là hiệu trưởng trường
tư thục Louis Pasteur, ở Hà-nội. Vì thế sự phát triển của hai cái hội này cũng
có tốc độ và tầm cỡ khác nhau. Dân miền Bắc Việt Nam, ở với mafia đỏ lâu rồi,
cũng biết nhận xét đôi chút. Nhìn vị trí của hai “chủ tịch” đó là người ta đã
thấy “nhất bên trọng, nhất bên khinh”. Cho nên, chỉ có một bộ phận nào đó trong
lưu học sinh hay cán bộ mafia đỏ là gia nhập “hội Việt-Trung”, chủ yếu ở ngành
đường sắt và khu gang thép Thái-nguyên. Nó cũng còn lý do nữa là dân Việt Nam
dị ứng “ba Tàu cộng” vì nó quá lố lăng, kệch cỡm, giả dối, khác lạ 100%.
Còn “hội Việt-Xô” thì phát triển ào ào, ở khắp cả miền
Bắc, từ trong ngụy quân cho đến các ngành, các bộ; các trường đại học và cả một
số trường trung học; các bệnh viện cho đến các nhà máy, cửa hàng. Và, các lớp
Nga văn mọc như nấm. Nga văn trở thành môn học bắt buộc ở bậc trung học lẫn đại
học các ngành. Ủy ban khoa học Nhà nước (ngụy quyền Hà-nội), trường đại học
Bách khoa Hà-nội và Tổng cục địa chất là địa bàn độc quyền của cái gọi là hội
Việt-Xô đó. Ảnh hưởng văn hóa Pháp trong hơn 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt
Nam cũng không có chiều sâu và chiều rộng như ảnh hưởng của Nga-xô ở Bắc Việt
Nam khi ấy, trong vòng chưa đầy chục năm. Tỉnh táo ngắm nhìn bức tranh miền Bắc
Việt Nam sau 1954 thì thấy rõ đấy thực sự là thuộc địa của Nga-xô cả tinh thần
cả vật chất. Lối sống Việt Nam, truyền thống Việt Nam hoàn toàn bị ngụy quyền
Hồ chí Minh san bằng, cho phù hợp với lá cờ “đảng mafia cộng sản Việt Nam” là
cờ đỏ búa liềm vàng (cũng là quốc kỳ Nga-xô). Tên và ảnh các lãnh tụ cộng đảng
Nga-xô và các tài tử điện ảnh Nga nằm đầy trên vách nhà của nông dân Bắc Việt
Nam. Sách, truyện của Nga được dịch và tràn ngập các thư viện chính thống đã
đành, nó còn len vào các tủ sách cơ quan, hợp tác xã kể cả thủ công nghiệp lẫn nông
nghiệp. Tất nhiên, tư nhân làm gì có tiền mà mua. Tiền mua sách này là lấy từ
các quỹ của “công đoàn” hay của “nông hội” mà ra. Nghĩa là ngụy quyền Hồ chí
Minh bóp cổ nhân dân qua các loại thuế, loại nguyệt liễm, rồi dùng một phần
tiền đó vào việc “nhuộm đỏ” đầu óc người dân Việt Nam. Cán bộ ngụy quyền Hồ chí
Minh coi người Nga (Nga-xô) như thánh thần, như ông chủ lớn. Chỉ lấy lại một
thí dụ cụ thể về tác giả “Gửi Mẹ và Quốc hội” để chứng minh cái xun xoe như chó
mừng chủ khi ấy. Bấy giờ là hè năm 1955, Nguyễn văn Trấn làm nhiệm vụ “giảng
viên thường trực” của trường gọi là “đại học nhân dân” (sáng kiến của Hồ chí
Minh), được một phóng viên báo Sự Thật của Nga-xô tới thăm trường. Văn võ bá
quan của trường y hệt cảnh lý dịch ở nông thôn Việt Nam xưa, khúm núm đón “quan
Tây” vậy. Đủ mặt từ Đoàn trọng Truyến (sau làm trưởng tiểu ban kinh tế – tài
chính của quốc hội ngụy và cũng là kẻ cùng với Tố Hữu và Trần Phương đồng tác
giả vở kịch “giá, lương, tiền” và cùng bị ngã ngựa); đến Trịnh Bốn (sau làm vụ
trưởng vụ tổ chức và cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước ngụy); Nguyễn khoa
Minh (nguyên bí thư tỉnh ủy Quảng-ngãi, qua Nga-xô học, chưa về nước mà đã được
cử giữ chức giám đốc trường đại học tổng hợp, vì “tội” làm luận án “đảng toàn
dân”, theo luận điểm của Khrútxốp nên cũng ngã ngựa và Ngụy Như Kontum được lấp
lỗ trống) và một số đông học trò của trường, Nguyễn văn Trấn vẻ mặt ngoan
ngoãn, hai tay nắm lấy bàn tay của tên Nga-xô đó, ngọng ngịu (vì hơi móm) khen:
Nào là đồng chí to con quá, trẻ quá, giỏi quá(?). Nào là đồng chí có mệt không?
“Đồng chí” bị muỗi cắn ở tay rồi. Bảo y tá lấy thuốc chữa cho “đồng chí
Liên-xô” ngay v.v…, trông bệ rạc, hèn hèn đến mức một số học sinh là người
Hà-nội, nhìn nhau “đỏ mặt hộ”! Còn tên Nga-xô kia chắc không hiểu Nguyễn văn Trấn
nói gì (vì nói tiếng Việt) nên hắn quay qua phía Đoàn trọng Truyến (tay đang
cầm quyển Le Russe sans peine) nói vài câu lấp lửng, để mặc cho “đồng chí”
Nguyễn văn Trấn nói chuyện với cái tay của hắn. (Đọc cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”,
nhớ lại hình ảnh đó cũng như nhiều việc khác, chẳng biết nói gì hơn là ngửa cổ
lên trời cười khẽ ba tiếng rằng: trên đời này, ngụy quyền cộng sản đã đào tạo
ra nhiều tay “nói trạng” lắm, ai ơi!!!) Lại nói về cái gọi là “hội Việt-Trung”
tuy lép vế, nhưng bù lại Trung cộng có cái “hội Hoa liên” (tức liên hiệp những
người Hoa ở Bắc Việt Nam) mà trái tim là trường trung học Trung hoa, lò sản
xuất các trò nhố nhăng để sau này thành cái gọi là “hồng vệ binh”. Hội này cũng
có tờ báo riêng là “Tân Việt-Hoa”, một thứ “lá cải” – công cụ tẩy não.
Tất nhiên cả hai cái hội nói trên có chỗ dựa vững chắc
và cũng là đầu não chỉ đạo là hai sứ quán Nga-xô và Trung cộng ở Hà-nội, đều do
“tướng” cầm đầu.
Cơ cấu tổ chức của cái gọi “hội Việt-Xô” như thế, nên
chỉ có ngủ mê mới không thấy nó thực sự là công cụ bành trướng tinh thần
Nga-xô, trong nhân dân Bắc Việt Nam, của ngụy quyền Hồ chí Minh. Mặt khác,
trong tay Serbakov – viên thiếu tướng tình báo của Nga-xô, giữ chức “đại sứ đặc
mệnh toàn quyền” ở Hà-nội – nó cũng là “màng lưới tình báo của Nga-xô” (hữu
thức hoặc vô thức) và là một thứ tổ chức công dân búa liềm mở rộng. Nhà nghề
gián điệp như Serbakov, làm sao lại không tận dụng cái công cụ đó mà “giám sát”
mọi hoạt động của cái tổ chức cộng sản mafia của Hồ. Vì thế, khi Hồ đu dây giữa
hai ông anh, “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”, để trong những năm
1961-62, thì thọt cùng Trung cộng bàn bạc, cho ra đời cái sẽ gọi là “quốc tế
Mao-ít” – một thứ đảo chính vị thế lãnh đạo tối cao của Nga-xô trong thế giới
mafia đỏ (tức cộng sản), cũng như việc làm ngược với nghị quyết 20 của Nga-xô
và của chính ngay các nghị quyết của đại hội 3 mafia đỏ Việt Nam – thì đương
nhiên Nga-xô qua tay Serbakov phải sử dụng cái công cụ “hội Việt-Xô” để uốn
nắn, răn đe Hồ đừng đi quá trớn mà “lộng giả thành chân” là bỏ mẹ đời Hồ đấy.
Cho nên, khi ấy mới bắt đầu có những tiếng nói mà hầu hết là thành viên của hội
“Việt-Xô” đòi “thực hiện đúng đắn những nghị quyết của đại hội 3 của mafia đỏ
Việt Nam”. Có nghĩa là đi đúng tinh thần nghị quyết 20 của Nga-xô mà cụ thể là
“Tuyên bố chung của 81 đảng” mà Hồ và Lê Duẩn đã cùng ký năm 1960. Thế là, có
thể nói cho chính xác, thì một số đảng viên có chức, có quyền ở mức tương đối
với công lao của họ (bị coi là thất sủng) có thì thọt với nhau hoặc trực tiếp,
hoặc qua đàn em, con cái để cùng “thống nhất” chống lại việc tách xa nghị quyết
đại hội 3 mafia Việt Nam, mà cụ thể là “chống nghị quyết 9” (là nghị quyết thân
Trung cộng), xin bảo lưu ý kiến. Nhĩa là muốn lật phe thân Trung cộng. Cũng xin
mở ngoặc trình bày về cái gọi là quyền bảo lưu ý kiến. Theo điều lệ của mafia
đỏ thì chúng lãnh đạo theo cách gọi là “dân chủ tập trung”, “thiểu số phục tùng
đa số”, nhưng vẫn thấy ý mình là đúng thì vì là thiểu số, cứ phải tuân theo ý
đa số đã nhưng có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Từ ngày tổ chức mafia đỏ ra
đời, núp dưới cái nón cối “đảng chính trị”, cho nên cạnh cái đống phân “dân chủ
tập trung”, chúng cho ra cái bánh vẽ “quyền bảo lưu ý kiến”, nhưng thực ra
không bao giờ được thi hành. Nói cho dễ hiểu, thì như trong cái gọi là hiến
pháp của ngụy quyền cộng sản Hà-nội có ghi rằng mọi người được tự do lập hội
chẳng hạn. Thế mà, mới ngay năm 2001 này, là thời kỳ “con tắc kè mafia đỏ” đang
đổi màu tý chút cho phù hợp với môi trường chính trị thế giới hiện nay, vậy mà
mấy người xin lập “hội chống tham nhũng” (để giúp “đảng”) đều được dzô tù mà
lập hội!!!
Vậy thử nghĩ xem, thời kỳ của những năm 60 đó, họ Hồ
đang cầm quyền mà lại có kẻ cả gan dám nghĩ khác với Hồ, tranh khôn hơn hắn thì
số phận phải như thế nào? Chưa có quyền mà Hồ còn dám bán cụ Phan Bội Châu, ám
hại Lê hồng Phong, Phùng chí Kiên (cũng là những đồng chí của hắn, thì bây giờ
ở thế quyền uy tuyệt đối, cái gì mà hắn chả dám làm). Đến cái gọi là “cải cách
ruộng đất”, tự lỗ mồm Hồ cũng phọt ra hai chữ “sai lầm”, rồi hắn sai Võ nguyên
Giáp ra xin lỗi “dân”. Vậy mà mấy người khoe khôn dám nhìn thấy sai lầm của
“cải cách ruộng đất” trước khi Hồ có ý kiến, mặc dù những người đó đều có tiếng
tăm và đang là “bộ áo giả dân chủ” của họ Hồ, mà cả lực, cả thế đều là con số
không, như luật sư Nguyễn mạnh Tường, bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe, thứ trưởng
văn hóa Đỗ đức Dục v.v… Còn bị Hồ thẳng tay vứt vào sọc rác cho đến hết đời
luôn, và Hồ còn vứt luôn cả bộ tư pháp lẫn khoa luật cho “tụi bay hết nói lý
với luật”, làm bài học cho tất cả những ai sống dưới sự cai trị của họ Hồ. Tiếc
rằng còn nhiều đệ tử của Hồ vẫn mơ hồ. Lấy thí dụ: Mới tháng này thôi
(12-2001), hai chục bà nông dân ở miền Nam Việt Nam đã kéo nhau ra Hà-nội biểu
tình đòi ruộng đất. Họ dám làm vậy là có nhiều lý do, nhưng có một lý do quan
trọng là dựa vào dư luận xã hội, dư luận quốc tế, đặc biệt là cái loa chính
nghĩa của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì thế mới dám đòi hỏi quyền
lợi của mình.
Cũng như thế, cái nhóm chống nghị quyết Mao-ít của Hồ,
đều là những người “làm chính trị” chuyên nghiệp là đàng khác, đương nhiên họ
phải tìm chỗ dựa trước khi chống nghị quyết 9! Ngay câu chuyện về Lê Liêm (nếu
là có thực) cũng tìm Hồ làm chỗ dựa trước khi vào họp mới dám đưa ý kiến chống
nghị quyết 9.
Vậy cái nhóm đó là ai? Xin thưa rằng, đó là Dương bạch
Mai (coi như người cầm đầu), Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Lê Liêm, Nguyễn văn
Vịnh, Đặng kim Giang, Hoàng minh Chính, Minh Tranh v.v…
Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương
mafia đỏ, ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội, chủ tịch hội
Việt-Xô, kẻ chỉ riêng trong những năm 1945-46, với cương vị phụ trách công an
miền Nam, hắn đã giết biết bao người Việt Nam yêu nước; hắn đã tổ chức kế hoạch
giết tập thể đồng bào miền Nam theo các đạo Cao-đài, Hòa-hảo, hàng chục ngàn người.
Điển hình là mồ chôn tập thể hàng 4000 chức sắc và tín đồ Cao đài ở Quảng-ngãi,
cũng như các mồ tập thể khác tại Trà-cao (Tây-ninh). Một con người như Dương
bạch Mai thì dân chủ chỉ là chuyện chú Cuội.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen