Việt Thường
Bài 11
Vì thế cho nên cái mà tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh
gọi là “Vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp” không phải như sau này bị một
số người diễn dịch thành “những người đòi hỏi dân chủ”.
Xin nhớ rằng, cái thời của những năm 60 đó, ngay những
người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản còn mơ hồ về khái niệm dân chủ. Còn
những kẻ đã ở trong tổ chức mafia đỏ thì chúng chỉ hiểu và tranh nhau làm chủ
dân mà thôi. Có kẻ thích mô hình “Nga-xô”, có kẻ muốn mô hình “Trung cộng”.
Thích mô hình nào thì tìm chỗ dựa ở quan thầy đó. Dù là mô hình Nga-xô hay mô
hình Trung cộng, thì cũng rất xa lạ với dân chủ hay đúng hơn là tuyệt đối không
có dân chủ!
Và, ngay thời kỳ đó mà xét thì chỗ họ đã đứng và đang
đứng vẫn là chống lại dân chủ. Và, nếu như họ có đưa ra yêu sách dân chủ thì
cũng chỉ là cái cớ lật nhau, dành chỗ đứng cao ráo, béo bở hơn trong thang quan
lại thực dân đỏ. Có vậy thôi!!!
Việc này được nêu ra là nhằm không muốn thế hệ con
cháu chúng ta, cũng như một bộ phận không nhỏ nhân dân Việt Nam trong nước và
ngoài nước lại bị quả lừa không cần thiết. Xin nhấn mạnh rằng mấy nhân vật tìm
chỗ dựa ở Nga-xô khi đó để hy vọng ở thang bậc làm chủ dân cao hơn chứ không
bao giờ bọn họ có ý niệm về xã hội công dân hoặc chế độ dân chủ đa nguyên như
hiện nay. Bọn họ đều đổ nhiều công sức tâm huyết cho cái chế độ mafia đỏ
đó và phần lớn đều vấy máu người Việt Nam nói chung, người Việt Nam yêu nước và
yêu dân chủ nói riêng. Nhưng khi chia phần họ bị thiệt thòi nên bọn họ tìm
chỗ dựa Nga-xô vì quyền lợi bản thân chứ không vì dân.
Cần phải minh bạch chuyện này để nhân dân Việt Nam
hiện nay cũng như trong tương lai khỏi mang ơn những vị trời ơi đất hỡi vì bị
thiếu thông tin.
Sau 1954, nhiều nhân vật mafia đỏ ở miền Nam ra
Hà-nội, tưởng rằng với thành tích tiêu diệt những người không chấp nhận chế độ
cộng sản (tức thực dân đỏ), đàn áp và tàn sát các giáo phái v.v… chắc sẽ được
những địa vị quan trọng. Đó là: Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Dương bạch Mai
v.v… Vì Dương bạch Mai tuy được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ
nhưng chỉ được phân công là ủy viên thường vụ của quốc hội ngụy quyền Hà-nội,
mà trong đó đã có Trường Chinh, Hoàng văn Hoan là các ủy viên chính trị bộ, lại
thêm những bộ mặt có nanh có mỏ như Hoàng quốc Việt, Chu văn Tấn, Nguyễn thị
Thập v.v… Mà, tức nhất là ngay Tôn quang Phiệt (dự khuyết trung ương mafia đỏ
thôi) cũng ngồi cao hơn Dương bạch Mai một bậc, vì Phiệt là tổng thư ký của ủy
ban thường vụ quốc hội mafia đỏ. Cho nên Dương bạch Mai, với tư cách chủ tịch
hội Việt-Xô, hết sức phát triển hội cũng như kết thân với Serbakov, đại sứ
Nga-xô khi ấy. Qua sinh hoạt hội Việt-Xô, Mai tụ tập được một số “bất mãn” vì
thấy hạ phong so với những người “thành tích” mafia đỏ “còn kém mình”, và số
khác bị kỷ luật, kiểu như Ung văn Khiêm, vì chuyện ồn ào đánh ghen ở đường Trần
Quốc Toản (Hà-nội) cũng như đang giữ ghế bộ trưởng ngoại giao mà lúc quá chén
lại bốc đồng khen lập luận đảng toàn dân của Khrút-xốp. Hay như Bùi công Trừng,
một người tự coi là nhà lý luận mác-xít, là trí thức có hạng, vậy mà chỉ là ủy
viên dự khuyết mafia đỏ kiêm phó chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước (ngụy
quyền), thua xa lắc so với Tố Hữu. Cho nên Bùi cộng Trừng đã viết trên báo Nhân
dân (Hà-nội) ca ngợi rằng chủ nghĩa Mác là một khoa học nên là người có học mới
hiểu chủ nghĩa Mác. Và, thế là Lê Duẩn viết bài đập lại (cũng trên báo Nhân
dân) ý rằng phải cần có lập trường vô sản thì mới hiểu nổi chủ nghĩa Mác!!! Bùi
công Trừng bị điểm mặt từ đó.
Đại loại mọi việc như thế, chứ đâu nghĩ gì dân chủ!!!
Tụi mafia đỏ tự đội đảng mafia của chúng là đỉnh cao
của trí tuệ. Mỗi tên mafia đỏ cũng đều tự tôn mình thành “siêu công dân”. Chính
sự tự bơm đó đã làm chúng không biết chúng đang là “con cóc hay con bò” của
Lafontaine.
Thằng nào viết sách cũng khuếch đại cái tôi lên vạn
lần.
Bởi không đánh giá đúng bản thân nên bọn chúng rất chủ
quan. Lại thêm cái máu Việt gian đậm màu thêm cùng với thời gian hoạt động cho
mafia đỏ, nên chúng miệng nói “nhân dân là vô tận v.v…” nhưng chúng chỉ đi tìm
chỗ dựa ở ngoại bang, vì chỉ có cấu kết với ngoại bang thì mới dễ đạt mục đích
làm chủ của dân.
Thiếu tướng Đặng kim Giang (xuất thân cốt cán hệt như
tướng Chu huy Mân, chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội trước cả Lê đức Anh)
cùng được phong tướng với những tướng ngụy khác như Đỗ Mười, Phan trọng Tuệ,
Nguyễn thanh Bình, Lê hiến Mai v.v… Trong khi Đỗ Mười thì leo lên tới phó thủ
tướng; Phan trọng Tuệ cũng phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giao thông và bưu điện;
Nguyễn thanh Bình là bộ trưởng bộ nội thương; Lê hiến Mai là phó chủ nhiệm tổng
cục chính trị, núp dưới bí danh Dương quốc Chính còn là bộ trưởng đại diện
chính phủ ở khu bốn. Ngay các đại tá thôi, như Hà kế Tấn cũng là bộ trưởng thủy
lợi; đại tá Đàm quang Trung, tư lệnh khu bốn; đại tá Phùng thế Tài, phó tổng
tham mưu trưởng kiêm tư lệnh và chính ủy bộ tư lệnh phòng không và không quân;
đại tá Lê Hiền, tư lệnh bộ tư lệnh thủ đô Hà-nội; đại tá Vũ văn Cẩn, bộ trưởng
bộ y tế. Và, cù lần như đại tá Nguyễn văn Quặn cũng giữ ghế phó chủ nhiệm ủy
ban thể dục thể thao (trung tướng Hoàng văn Thái là chủ nhiệm). Thế mà tướng
Đặng kim Giang chỉ được cái ghế thứ trưởng bộ nông trường!!!
Ông Vũ đình Huỳnh, thân phụ nhà văn Vũ thư Hiên, từ
một người công giáo toàn tòng đã tham gia cộng sản từ rất sớm, khi bị giải lên
nhà tù Sơn-la, cùng chung một còng với tên lang băm Xuân Thủy (sau 1954, Thủy
được Hồ cho chức bí thư trung ương mafia đỏ). Năm 1945, khi Hồ được Võ nguyên
Giáp mang trung đội vũ trang hộ tống về Hà-nội, Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ)
được cử làm lái xe hơi kiêm đầu bếp của Hồ thì ông Vũ đình Huỳnh được cử là một
trong những thư ký riêng của Hồ (vì Hồ có nhiều thư ký lắm kể cả Phạm huy
Thông, khi Hồ qua Pháp mới tuyển dụng). Những người không u mê thì nghĩ rằng Hồ
chọn một người công giáo toàn tòng làm thư ký riêng, nghĩa là loại tin cẩn, chỉ
là một thủ đoạn chính trị, nhằm yên lòng giáo dân và đặc biệt để Hồ dễ ăn nói,
gặp gỡ một nhân vật mà Hồ rất e ngại, kiêng nể là Đức cha Lê hữu Từ. Khi thủ
đoạn đó xong, lên Việt-Bắc ông Vũ đình Huỳnh chỉ giữ chức vụ trưởng vụ lễ tân
bộ ngoại giao cho đến ngày bị bắt. Hàm vụ trưởng đâu phải là một chức to tát gì
đâu, cụ thể là chưa có tiêu chuẩn mua hàng ở cửa hàng Tôn Đản, mà chỉ mua ở cửa
hàng Vân Hồ (nơi vợ tướng Trần Độ làm cửa hàng trưởng), hoặc ở Nhà Thờ, hoặc ở
Nguyễn cảnh Chân, là 3 cửa hàng dành cho cán bộ mafia đỏ từ bậc chuyên viên 2,
bậc thiếu tá, trung tá của lực lượng vũ trang và các cục, vụ trưởng. Trong khi
đó, “lái xe” Nguyễn lương Bằng vừa được là ủy viên trung ương chính thức của
mafia đỏ lại còn kiêm trưởng ban kiểm tra trung ương mafia đỏ, rồi còn lên phó
chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội. Và, ngay Phạm huy Thông, dù can tội tặng
tướng Võ nguyên Giáp một cặp sừng dê mà cũng là viện trưởng viện khảo cổ (cấp
viện trưởng là ngang thứ trưởng) và có thẻ mua hàng ở Tôn Đản! Cho nên nói cho
chính xác thì ông Vũ đình Huỳnh chỉ là một người tham gia tổ chức mafia đỏ của
Hồ ở bậc cố cựu chứ chưa bao giờ được giữ chức vụ gì quan trọng cả, còn thua xa
tên Tạ quang Chiến là lái xe kiêm dắt gái cho Hồ, sau ra làm tổng cục trưởng
tổng cục thể dục thể thao.
Qua cái việc đề bạt nhân sự này, một lần nữa là bằng
chứng cụ thể rằng Hồ luôn luôn là kẻ nắm quyền thực sự, chẳng ai khống
chế được hắn.
Như đã trình bày ở trên, rằng cái hội Việt-Xô của
Dương bạch Mai tỏa rễ rộng khắp mọi cơ sở hoạt động của xã hội miền Bắc khi đó,
cho nên thành phần chống nghị quyết 9 cũng đa dạng, trong đó có thể có nhiều
người chỉ muốn chống lại việc xích lại gần Ba Tàu cộng chứ không nghĩ đến hoặc
không dám nghĩ đến việc chống Hồ. Nhưng, cái xuất thân của Dương bạch Mai cũng
như quá trình hoạt động cho mafia đỏ với nhiều thành tích, rõ ràng có sáng giá
hơn bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng v.v…. đặc biệt là “thành tích” lừa
đảo trong vụ tháng 8 năm 1945, cướp công của các tổ chức, nhân sỹ yêu nước, ở
miền Nam Việt Nam, cũng như nhanh tay tiêu diệt các giáo phái Cao Đài và Hòa
Hảo. Và, tham vọng lớn của Dương bạch Mai, nên hắn muốn thừa gió bẻ măng định
làm đảo chính cung đình giống kiểu Khrút-xốp ở Nga-xô. Và, Dương bạch Mai đã
tìm chỗ dựa Nga-xô, trực tiếp qua tên Serbakov.
Vì quá ham địa vị, lại tự hào về kiến thức và thành
tích, Dương bạch Mai đã mờ mắt không nhận ra được vị trí quân cờ Hồ chí Minh
trong thế chiến lược của Nga-xô. Vì thế mà Hồ được thông báo ngầm toàn bộ kế
hoạch của Dương bạch Mai, trong đó sẽ lợi dụng họp quốc hội ngụy quyền Hà-nội,
để làm cái việc như Khrút-xốp đã làm trong đại hội 20 của Nga-xô. Nghĩa là
Dương bạch Mai sẽ tố giác “tệ sùng bái cá nhân Hồ” cũng như các tội ác của Hồ
trong “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “nhân văn – giai phẩm”, “cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” v.v…
Và, ngày 4-4-1964, tại cuộc họp quốc hội ngụy quyền Hồ
chí Minh ở Ba-đình (Hà-nội), theo lịch trình thì sau giải lao giữa giờ là lời
phát biểu của ủy viên thường vụ quốc hội Dương bạch Mai. Nhưng chuyện đó đã và
sẽ chẳng bao giờ xảy ra, vì đang giải lao thì “chú” Dương bạch Mai được “bác”
Hồ niềm nở mời uống ly nước và vài câu chuyện mưa nắng v.v… Rồi “chú” Dương
bạch Mai đã gục chết trên ghế “đại biểu quốc hội”, nghe đoán là “chắc” bị ngộp
tim, nhưng có mặt ở đó một loạt đại biểu có nghề bác sỹ như bác sỹ Trần duy
Hưng, giáo sư bác sỹ Tôn thất Tùng, giáo sư bác sỹ Trần hữu Tước, bác sỹ Nguyễn
tấn Di Trọng v.v…, nhưng chẳng ai muốn “bỏ nhiệm vụ đại biểu quốc hội” để làm
“lương y như từ mẫu”. Và, sau đó là các đòn linh hoạt của me-xừ “sáu búa” Lê
đức Thọ, người được Hồ giao cái việc “trông nom lũ gọi là cán bộ”! Mọi chuyện
bắt bớ, tra hỏi, bỏ tù, đã có nhiều vị viết sách kể lể, hư cấu quá đầy đủ, cho
đến tận bây giờ thì từ cái nội dung “chống nghị quyết 9” (tức thân Trung
cộng), đã đổi màu thành đấu tranh đòi dân chủ!!! Sợ không, vì
cái thời điểm đó ngay tại mẫu quốc đỏ là Nga-xô, sau cái gọi là đại hội 20 của
Nga-xô, thì dân chủ vẫn là hai tiếng cấm kỵ, vậy mà mấy anh dân
thuộc địa đỏ dám nói đến, trách nào chú Cuội cứ ở lỳ trên cung trăng, sợ xuống
Bắc Việt Nam không có đất sống!!!
Chỉ có miền Nam Việt Nam, trước tháng 4-1975, mới có
mầm mống và hơi hướng dân chủ mà thôi. Và vì thế, khi ngụy quyền mafia đỏ
Hà-nội vũ trang xâm lăng miền Nam xong, nụ cười chiến thắng trên môi chưa kịp
tắt thì đã lung túng với cái tinh thần dân chủ của miền Nam Việt Nam, tuy còn
non trẻ. Để rồi, sau này, khi những người miền Nam Việt Nam kiến lập được một cộng
đồng người Việt hùng hậu ở nước ngoài, thì mới bắt đầu gọi là có “đấu tranh đòi
dân chủ”, vì có chỗ dựa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Những người như
ông Nguyễn Hộ, nhà thơ Bùi minh Quốc, nhà văn Dương thu Hương, Bảo Ninh, các
linh mục Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, rồi bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… mới không bị
ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội nghiền nát thành “tương cự đà”. Và, rồi cũng từ lúc
ấy, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà tập thơ “Hoa địa ngục” của Nguyễn
chí Thiện cho đến “Thiên đường mù”, “Bên kia bờ ảo vọng” của Dương thu Hương;
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh; “Gửi mẹ và quốc hội” của Nguyễn văn Trấn,
Đoàn viết Hoạt v.v… và v.v… mới được thế giới biết đến để cho cuộc đấu
tranh đòi dân chủ ở Việt Nam bén rễ, nẩy lộc như hiện nay, đang được biết
bao tầng lớp người dân Việt Nam tham gia ngày càng ngoan cường. Cuộc đấu
tranh đó là của người dân chứ không phải là của những người đương chức
đương quyền dù nhỏ hay lớn trong bộ máy quan lại của ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội.
Cũng chính cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã điểm
trúng huyệt “bách hội” của tập đoàn mafia đỏ Hà-nội. Đó là bằng công trình
nghiên cứu khoa học của giáo sư Lê Hữu Mục, cộng đồng người Việt ở nước ngoài
đã vạch mặt tên đạo văn Hồ chí Minh, khiến mấy me-xừ quan liêu ở cơ quan UNESCO
phải rút lại cái danh hiệu “danh nhân văn hóa thế giới”, chút xíu vì lẩm cẩm đã
tặng cho Hồ.
Nhờ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cái cộng đồng
được hình thành vì bị mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lược, tàn sát nên phải đi
lưu vong, trong đó công lao góp cho mafia đỏ gieo rắc tai họa cho cộng đồng này
không phải là ít, như ông Trần Độ chẳng hạn, nhưng mọi người vẫn đánh giá đứng
mức những gì ông đang đóng góp hiện nay, khi ông bị “cách quan” để làm dân và
đang hiểu phần nào thân phận người dân dưới sự cai trị của mafia đỏ (bởi ông
Trần Độ vẫn chưa thấy cái sai trong việc theo lệnh Hồ, xâm lăng và tàn sát nhân
dân miền Nam Việt Nam).
Đối với các ông như Hoàng minh Chính, Lê Giản, Hoàng
hữu Nhân, Lê hồng Hà v.v…, cũng phải sau tháng 4-1975 nhiều năm, các ông đó mới
thấy nhu cầu dân chủ cho đất nước, nghĩa là khi đã bị làm dân; còn nhận ra muộn
hơn nhà văn Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, nhà thơ Bùi minh Quốc v.v…
và không sâu sắc như ông Nguyễn Hộ và Hà sỹ Phu (Nguyễn xuân Tụ). Còn một số
khác thì cho đến chết vẫn nặng mùi cơ hội như bác sỹ Nguyễn khắc Viện hay giáo
sư Trần đức Thảo, nhà thơ Vũ Cận v.v…
Vì lòng nhân ái, nhưng chủ yếu là thiếu thông tin, nên
nhân dân Việt Nam cả trong và ngoài nước dễ bị lầm – nhất là cộng đồng người
Việt ở hải ngoại – nên cần cân nhắc cẩn thận khi đề cập đến một ai đó. Nghe
nhưng phải kiểm tra, phải phân tích, đối chiếu. Tổ tiên ta đã căn dặn: “Yêu củ
ấu cũng tròn, ghét bồ hòn cũng ngọt” là vậy, cũng như “nói vậy mà không phải
vậy”! Không quên công lao những người đã và đang đấu tranh với ngụy quyền Hồ
chí Minh, nhưng không thể không xem xét động cơ đấu tranh của họ là vì dân hay
vì mình!
Dù là vì dân hay vì mình mà đấu tranh chống mafia đỏ
Việt Nam hiện nay đều đáng được ủng hộ mọi mặt, nhưng phải xem xét động cơ đấu
tranh thì mới khỏi bị lặp lại cảnh “tránh vỏ dưa dẫm phải vỏ dừa” (như chuyện
ủng hộ việc chống thực dân Pháp trước đây vậy).
Như thế sẽ có thể có câu hỏi đặt ra là: Những ý kiến
của ông Nguyễn trung Thành về vấn đề này là thế nào?
Xin thưa rằng, ông Nguyễn trung Thành, trưởng ban bảo
vệ đảng, từng là một cán bộ có giá dưới quyền Lê đức Thọ, và được giao giải
quyết vụ này. Mấy năm gần đây, ông Nguyễn trung Thành có ý kiến đề nghị minh
oan cho nhóm “chống nghị quyết 9” rằng họ vô tội, không có chuyện phản đảng và
cũng không có chuyện làm gián điệp cho nước ngoài như cáo buộc trước kia. Ông
Nguyễn trung Thành phải công khai hóa chuyện này vì cả mấy đời “tổng bí thư”
đều không giải quyết. Không những thế, ông còn bị Đỗ Mười (từng bị điên) gọi
ông lên nhắc khéo rằng ông đã đến tuổi “về hưu”. Nghĩa là chưa tiện nói hai
tiếng “lẩm cẩm”, vì Mười còn hơn tuổi ông Nguyễn trung Thành.
Tại sao những người nắm quyền lực chính của mafia đỏ
cứ lúng túng về chuyện này, trong lúc họ dám “chê trách” Lê Duẩn và Lê đức Thọ
ở nhiều vụ việc khác, kể cả việc “cho Hồ ra rìa” như Lữ Phương trích ý của Vũ
Kỳ – thư ký của Hồ – viết trên tờ Văn nghệ, hay “sửa di chúc của Hồ” và thay
đổi cả ngày giờ ngủm củ tỏi của Hồ.
Chẳng có gì khó hiểu cả, vì tất cả các vụ việc đó đều
do lệnh miệng của Hồ, nghĩa là Hồ bảo Lê Duẩn và Lê đức Thọ trừng phạt những ai
dám đòi khôn hơn Hồ cản trở nước cờ đu dây của Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng,
đặc biệt dám đấu Hồ. Vì thế mà từ Trường Chinh cho đến Nguyễn văn Linh, rồi Đỗ
Mười, Lê khả Phiêu, và Nông đức Mạnh, đứa nào cũng cứ như “chó ăn vụng bột” mở
mỏ nói không được. Vì nếu giải quyết vụ “án xét lại” có nghĩa là phải
kết án Hồ, tức là tự tay đập nát cái thần tượng mà chúng đang núp sau để lừa
thiên hạ.
Việc đơn giản như vậy mà các vị “xét lại” không nhìn
ra vì hai tay các vị dù nhiều dù ít đã nhúng chàm “mafia đỏ”, nên có dám mở mắt
để nhìn vào cái bản mặt Việt gian của Hồ chí Minh đâu, cho nên cứ chạy theo
me-xừ “kiến đi kiện củ khoai”. Điều này càng chứng minh thêm sự tai hại ghê gớm
của việc nhiều “ngòi bút chống đối” hiện nay ở trong nước vẫn u mê dựng ra “chủ
nghĩa Hồ chí Minh” để chống tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ hiện nay mà chúng lại
chính là sản phẩm đúng nhãn họ Hồ.
Bất cứ ai, đã nhiễm virus HIV mafia đỏ dương tính, thì
dù có cả trăm bồ kiến thức như Trần văn Giàu, Dương bạch Mai, Bùi công Trừng,
bác sỹ Nguyễn khắc Viện, thạc sỹ Trần đức Thảo v.v… hay cả ông Hoàng minh
Chính, ông Trần Độ, ông Trần Khuê v.v… cũng chỉ nhìn được “một nửa sự thật”,
hệt như mấy vị đã thoát hiểm ra nước ngoài, dù viết cả gần chục cuốn sách hay
cả ngàn trang mà nhiều vấn đề vẫn chỉ càng thêm mơ hồ, thêm khó hiểu. Ngay như
Lữ Phương, một cây bút được cả trong và ngoài nước cho là “có trình độ lý luận”
mà cũng có lối giải thích rất ấu trĩ. Lữ Phương nâng Hồ lên “… là
nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc
thuộc thế kỷ 20”. Nào là Hồ đã: “Tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống
lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở
quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam”.
Nghĩa là Lữ Phương thừa nhận:
1- Hồ là người tổ chức cuộc chiến đấu chống cả thực
dân Pháp lẫn cả Mỹ (theo lối nói của mafia đỏ gọi Mỹ là thực dân mới);
2- Hồ đã lãnh đạo để “hoàn thành độc lập, thống nhất”
tức là sau khi Hồ chết (9-1969), cái gọi là “độc lập, thống nhất” được thực
hiện vào 30-4-1975 cũng là công lao của Hồ, có nghĩa là Hồ chết rồi,
nhưng bọn Lê Duẩn vẫn làm theo lệnh của Hồ từ trước đó;
3- Hồ cũng là người “thiết lập chế độ gọi là “chủ
nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam”. Như thế có nghĩa là theo ý Lữ Phương
thì không chỉ với phía Bắc Việt Nam mà ngay miền Nam Việt Nam bị khoác cho cái
gông “chủ nghĩa xã hội hiện thực” cũng là công của Hồ.
Vơ tất cả mọi công lao cho Hồ, vinh danh Hồ đến tột
cùng như thế mà Lữ Phương lại dám “đau xót cho Hồ là bị cho ra rìa”. Chỉ tính từ nghị quyết 9, có nghĩa
từ năm 1963, theo Lữ Phương, Hồ đã bị “cho ra rìa” rồi thì làm sao Hồ có thể tổ
chức chiến đấu chống Mỹ mà hoàn thành độc lập, thống nhất để thiết lập chế độ XHCN
hiện thực ở Việt Nam là chuyện của 4-1975!!! Học hành lý luận kiểu đó, trách
nào mà chẳng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” để đến nỗi “canh bạc chính trị”
trốn ra bưng năm 1968 (là năm ngụy quân Hồ chí Minh gây ra vụ thảm sát ở Huế)
vẫn đánh cây bài “chính phủ lâm thời”, đến nỗi cháy túi, mà bây giờ vẫn còn
chưa tỉnh!!!
Thôi thì cất bút cho rồi
Càng lý luận, càng lòi đuôi: nịnh thần!!!”
Cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng” của những năm
1960 không có tiếng vang trong nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, vì nó chỉ là
phản ứng trong nội bộ mafia đỏ của một thiểu số thân Nga-xô, hoàn toàn không
phải là phong trào của nhân dân và khởi xuất từ nguyện vọng của nhân dân. Cho
nên không được đa số nhân dân là nông dân biết đến và ủng hộ, vì thế nó như hoa
phù dung, “sớm nở tối tàn”.
Người trung thực phê phán vụ bắt bớ này là ông Nguyễn
trung Thành. Việc làm của ông thật đáng kính trọng. Đúng là gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn. Nhưng, cần phải nhớ rằng sự trung thực của ông Nguyễn trung
Thành đã giúp vén bức màn về “vụ án xét lại chống đảng”. Rằng: “Không có bằng
chứng đây là một tổ chức, có điều lệ, cương lĩnh và v.v…” Chính nhận xét đó của
ông Nguyễn trung Thành đã chứng minh rằng nhóm bị kết án trong “vụ xét lại
chống đảng” là một bộ phận quan trọng đầu não của hội Việt-Xô. Ông Nguyễn trung
Thành không nhìn ra được rằng hội Việt-Xô là tổ chức của họ và điều lệ của hội
Việt-Xô là cương lĩnh của họ. Bởi vì hành động phản đối nghị quyết 9, là nghị
quyết thân Trung cộng, có nghĩa là họ bảo vệ Nga-xô như mục đích việc hình
thành hội Việt-Xô cũng như điều lệ của hội Việt-Xô vậy. Còn cái gọi là “làm
gián điệp cho nước ngoài” là ý nói rằng một số trong bọn họ như Dương bạch Mai,
Ung văn Khiêm, Nguyễn văn Vịnh, Bùi công Trừng, Lê Liêm v.v… dự họp trung ương
mafia đỏ nên biết những chuyện như Trường Chinh, thay mặt bộ chính trị, tuyên
bố rằng: “Đường lối đối nội và đối ngoại của đảng ta (tức mafia đỏ Việt Nam)
hoàn toàn thống nhất với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung
quốc”. Cũng như việc bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng
văn Hoan qua Trung cộng bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế mới
(Mao-ít)”, tất cả đều báo cáo lại cho viên tình báo Serbakov, đại sứ đặc mệnh
toàn quyền Nga-xô tại Hà-nội lúc đó. Hơn nữa, cái tội danh “gián điệp” là bổn
cũ của Hồ và đồng bọn, cho đến nay là họ Nông, dùng để gán tội cho những ai bất
đồng với chúng.
Đứng ở góc độ của người dân miền Bắc Việt Nam khi ấy,
thì cuộc đấu đá giữa “xét lại” (thân Nga-xô) và “giáo điều” (thân Trung cộng)
đúng như được phản ảnh qua bức hí họa trên tờ Nouvel Observateur, là trên bộ
mặt của Mác râu ria xồm xoàm, một mắt bên trái (tức tả khuynh) là đầu Mao trạch
Đông và mắt bên phải (tức hữu khuynh) là đầu Brê-giơ-nép đang chửi nhau qua cái
sống mũi của Mác. Nghĩa là tụi có quyền dựa vào quan thầy tranh ăn với nhau
nhưng cả hai phe đều là con đẻ của cộng sản. Bây giờ có đủ bằng chứng để kết
luận rằng cộng sản = mafia đỏ. Còn thân phận người dân vẫn là lao động “làm
ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm chủ nhật”, còn vẫn chỉ được ăn “rau
muống” như đề nghị của bác sỹ Nguyễn khắc Viện, hoặc “ăn 7kg lá khoai mỳ thay
cho 1kg thịt bò” như phổ biến của ủy ban khoa học nhà nước, hoặc “ăn thai nhi
và nhau đẻ” như phổ biến của ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, do đích thân Phạm
văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban!!! Chưa ai nghe nói rằng cái nhóm
đó đòi hỏi chút tự do, chút miếng ăn cho người dân. Có thể là họ còn “để
bụng” đến những năm gần đây mới “bật mí” cho dân được sung sướng bất ngờ?(!)
Từ sau 30-4-1975, sau khi mafia đỏ đặt ách thực dân đỏ
lên miền Nam Việt Nam, thì lối sinh hoạt và sản xuất của miền Nam Việt Nam; nền
văn hóa, văn nghệ hòa hợp với nhân gian của miền Nam Việt Nam; tự do tín
ngưỡng, đi lại, lập hội, ra báo của miền Nam Việt Nam trước kia và v.v…, đã
đánh thức người dân miền Bắc Việt Nam (trong đó có cả các văn nghệ sỹ và những
người trong “vụ án xét lại chống đảng” bị đẩy khỏi cung đình quan lại mafia đỏ
Hà-nội để làm dân) khỏi giấc mộng du trong con hẻm bùn lầy XHCN của tập đoàn
Việt gian Hồ chí Minh. Chỉ khi đó người ta mới thấy nhu cầu dân chủ và đấu
tranh cho dân chủ, nhất là sau khi hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại
và sự sụp đổ của hệ thống XHCN, đặc biệt là Nga-xô, mẫu quốc đỏ của tập đoàn
mafia đỏ Hồ chí Minh.
Cũng xin lưu ý rằng, hiện nay có một số cán bộ lão
thành của mafia đỏ Hồ chí Minh lên tiếng vạch mặt bè lũ tham nhũng, đĩ bợm, bán
nước trong ngụy quyền cộng sản Hà-nội. Họ hoàn toàn không dính dáng gì đến nhóm
những người trong “vụ án xét lại chống đảng”. Thí dụ như các ông Nguyễn văn Đào,
Hoàng hữu Nhân, Lê Giản v.v… Đặc biệt là nhóm quá khứ là công an như Lê Giản,
Chu định Xương và Hoàng Đạo v.v… đã bị “cho ra rìa” từ trước và sau 1954. Bởi
vì những người đó không thích hợp cho bộ máy chuyên chính của họ Hồ sau khi Hồ
đã đặt được ách trị lên đầu người dân miền Bắc Việt Nam. Đối với Hồ, họ là quả
chanh đã bị vắt kiệt nước thì phải quăng đi. Thí dụ: Lê Giản, Chu định Xương đã
dàn dựng vụ án “Ôn như Hầu” năm 1946 ở Hà-nội, để bôi nhọ VNQDĐ. Hay Hoàng Đạo
(nguyên trưởng ty công an Thanh-hóa) cùng đệ tử là Nguyễn kim Sơn (anh ruột bác
sỹ Nguyễn ngọc Hà, trong tổ chức Việt gian ở Pháp, trước 1975) đã hoàn thành vụ
đánh đắm chiếc tàu thủy của Pháp. Những năm 1960, họ vẫn cứ mang cái “mác” công
an để ra các quán bia hơi ở Cổ-tân, Quan-thánh v.v… (tất cả đều ở Hà-nội) hù
mấy anh chàng xã viên hợp tác xã, có tiền, đễ uống bia gỡ, suốt từ 10 giờ sáng
cho đến 6-7 giờ tối. Sau 1975, Hoàng Đạo và Kim Sơn còn mò vào tận Sài-gòn để
mang lại cái “mác” công an đi lừa đảo, kiếm ăn cũng khấm khớ. Ngay Kim Sơn, chí
ít cũng lừa được 4 cái vi-la: một cho con trai, một cho bản thân, hai cho các
em trai.
Ngày nay, đứng ở vị thế “làm dân”, không làm quan đã
lâu, nên họ mới ngộ cái nghiệp làm dân mà đứng lên nói được mới một chút sự
thật mà thôi, và do khí thế đòi dân chủ, đòi quyền làm người nói chung, họ mới
bắt đầu “chống mafia đỏ”!
Xin đừng lẫn lộn với những người như ông Nguyễn Hộ hay
những người như các nhà văn Dương thu Hương, Lưu quang Vũ, Phùng gia Lộc, nhà
thơ Bùi minh Quốc, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu), ông Vũ cao Quận,
đại tá Phạm quế Dương v.v… là những người thực sự tỉnh ngộ cơn ác mộng XHCN và
đấu tranh cho dân chủ, tuy ở những mức độ khác nhau.
Còn những loại như bác sỹ Nguyễn khắc Viện là nhân vật
cơ hội điển hình và đệ tử ruột là Vũ Cận (dù là có tập thơ “chống chế độ”, khoe
là bí mật viết từ lâu). Những ai đọc và biết về hai nhân vật này, đều thấy họ
là cái chong chóng, thổi mạnh là quay như đèn cù! Còn thạc sỹ Trần đức Thảo thì
vì “luyện học thuyết Mác” mà ăn thịt cóc nên bị “tẩu hỏa nhập ma”, chẳng có ích
gì cho dân tộc cũng như bản thân. Cái đáng trách nhất là ông ta đã để mafia đỏ
dùng vào việc “đấu” ông Hà sỹ Phu trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của mafia
đỏ!!!
Những người đấu tranh cho dân chủ mãnh liệt nhất chính
là nông dân, như ở Đồng-nai, Thanh-hóa, Thái-bình v.v… vì họ ở vị trí dân thứ
thiệt, chứ không phải là loại “quan bị cách” nên bật lò-xo, hoặc đánh cá độ
“phe này phe kia”, và một bộ phận nữa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nói
chung.
Nêu lên những sự thật mắt thấy tai nghe nói trên,
người viết chỉ muốn minh bạch mọi việc, để sau này có ai soạn lại lịch sử Việt
Nam tránh bị lẫn lộn cảnh “râu ông nọ cắm cằm bà kia”!
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen