* * * * *
Việt Thường
Bài 15
Nếu điểm lại kỹ càng những việc Hồ đã làm, từ khi hắn
lấy cái tên Nga là Line, trở thành mật vụ cho Nga-xô, cho đến ngày hắn chết,
thì mới thấy cái lưu manh của Hồ trong nội dung di chúc của hắn.
Hồ soạn mấy cái di chúc để đệ tử tiện sử dụng tùy thời
lúc hắn chết. Nhưng tựu trung vẫn chỉ là căn dặn đệ tử:
1. Phải coi việc bảo vệ mẫu quốc là trọng tâm
hoạt động của toàn tổ chức mafia đỏ Việt Nam
Cái nội dung của nhiệm vụ trung tâm nói trên có nghĩa
là phải tiếp tục thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ,
tức xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Sau nữa, có thể mở
rộng ra cả vùng Đông-nam-á. Muốn thế, về đối nội phải tiếp tục chuyên chính,
nghĩa là dùng bạo lực cưỡng bức toàn dân theo lệnh của tụi chóp bu của tổ chức
mafia đỏ Việt Nam. Phải hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, nghĩa là phải tiếp tục vô
sản hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, thành tài sản của tổ chức
mafia đỏ. Có thế mới có điều kiện thực thi nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa
thực dân đỏ.
Cái mà Hồ nói đến là “chủ nghĩa quốc tế vô sản” là thứ
màu mè che đậy nội dung của “chủ nghĩa thực dân đỏ”. ở Paris, có nhà luật học đã cố tình quay lưng với thực tế,
làm trò xiếc tung hứng chữ nghĩa để viết rằng “Hồ là phe quốc tế”, còn
những Nguyễn Thái Học, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v… là “phe dân tộc”!!!
Tổ tiên ta đã dạy: “Đừng buôn chung với Đức Ông”.
Cho nên nước lớn thì dùng cái mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che bộ mặt thật là
thực dân. Còn mấy tên làm chính trị của nước nhỏ thì đeo mặt nạ “chủ
nghĩa quốc tế” để che đậy bộ mặt Việt gian, dựa vào nước lớn để giữ vững
quyền lợi cá nhân và phe nhóm mà thôi.
Cuộc chiến tranh họ Hồ phát động ở hai miền Bắc và Nam
Việt Nam có lợi cho ai, thật rõ ràng. Còn nhân dân và đất nước Việt Nam bị mất
đủ mọi thứ, cả tinh thần, cả vật chất.
Bè lũ Lê Duẩn đi tiếp con đường phản dân hại nước của
Hồ, càng dìm nhân dân và đất nước Việt Nam vào đầm lầy, ngõ cụt. Gây chiến sang
Căm-bốt, chiến tranh với Trung cộng, và để Nga-xô hưởng không cảng Cam-ranh
chẳng tốn một xu và các mỏ dầu hỏa ở biển Đông thì liên doanh theo kiểu “chủ ăn
thịt, chó gặm xương”!
Rồi khi “mẫu quốc đỏ” ngủm củ tỏi, bọn đệ tử của Hồ
lại tiếp tục cái sự nghiệp “quốc tế vô sản” của Hồ, quay lại với “anh hai Trung
cộng” xin sự che chở bằng dâng đất và biển, hệt như Hồ đã làm trước đây.
2. Bảo vệ sự đoàn kết trong tổ chức mafia đỏ
Khi còn sống, Hồ tạo ra hai băng Lê Duẩn và băng
Trường Chinh kình chống nhau, nhằm mục đích không băng nào dám phản lại Hồ.
Nhưng khi sắp chết, Hồ biết bọn chúng chỉ chờ Hồ nằm xuống là làm thịt nhau,
nên Hồ mới căn dặn bọn chúng phải “đoàn kết” nghĩa là phải biết san sẻ quyền
lợi, nhân nhượng để giữ vững quyền lợi “mẫu quốc đỏ” và quyền lợi của chính tổ
chức mafia đỏ Hồ chí Minh. Kẻ phát biểu cái ý đó của Hồ chính là Tố Hữu, viết
bài thơ ngay sau khi Hồ chết với đại ý rằng: “Nay cha mất rồi, anh em nên
cùng nhau chia việc gánh vác”!
Đấy là một lối đãi bôi đểu giả của Hồ với băng Trường
Chinh, vì hắn thừa biết là băng Lê Duẩn sẽ thắng thế. Nhưng, mục đích chính của
Hồ là để hậu thế vẫn thấy hắn là còn người luôn vì nghĩa lớn, luôn luôn đi theo
con đường “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!!!”
3. Tha thuế cho nông dân
Từ cuối năm 1954, do hiệp định Genève về Việt Nam, Hồ
đã nắm được quyền cai trị từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc Việt Nam. Hắn nắm quyền cai
trị suốt 15 năm trời, chưa bao giờ hắn mở mỏ nói đến giảm thuế, giảm sưu cho
dân. Mỗi phong trào hắn phát động là lại đem đến chém, giết, tù đày, đói khổ
cho người dân Bắc Việt Nam, đặc biệt là nông dân. Ngay không phải thời gian
giáp vụ thì cả miền Bắc Việt Nam đã phải trường kỳ ăn độn; ở nông thôn nhiều
nơi chết đói nhưng tuyệt nhiên báo, đài không được đưa tin. Mọi tội lỗi của
Hồ và tổ chức mafia đỏ của hắn gây ra cho nhân miền Bắc Việt Nam đều đổ cho “Mỹ-Ngụy”.
Và, lũ bút nô ra công bịa các chuyện đói khổ ở miền Nam Việt Nam, để xoa dịu
lòng dân. Nào là trong miền Nam, đàn bà con gái phải làm điếm kiếm ăn; gạo
thiếu đến mức nhà buôn phải trộn hạt ny-lông vào gạo. Ngay lính Mỹ cũng bị
“đói” đến mức phải cưỡi trực thăng đi cướp gạo của nông dân. (những điều này
“hư thực ra sao” chắc Lữ Phương không thể chối là không biết!)
Cơ quan khoa học của Hồ được lệnh khuyến khích nhân
dân ăn các thứ bá láp, nhưng lại chứng minh ra vẻ rất khoa học. Nào là ốc sên có nhiều đạm; ăn 7kg
lá khoai mì cũng bổ tương đương bằng 1kg thịt bò; thịt cóc, nhái đều có nhiều
đạm; rồi phổ biến làm “thủy sâm”; me-xừ Lý Ban, bí thư đảng đoàn bộ ngoại
thương (thời kỳ Phan Anh làm bộ trưởng và Nguyễn văn Đào làm thứ trưởng), cũng
là phái viên của Trung cộng trong trung ương mafia đỏ Việt Nam, thì ra công phổ
biến cách nhịn ăn, sáng sớm uống độ 2 lít nước âm ấm. Me-xừ bác sỹ Nguyễn khắc
Viện, tuy việc chính là “bịp” quốc tế về tình hình miền Bắc Việt Nam, có máu cơ
hội nên hưởng ứng bằng bài báo nghiên cứu về “rau muống” đăng trên tờ Văn Hóa.
Rồi nào là ngô bổ hơn gạo v.v… Và ngụy quyền Hồ chí Minh khuyến khích ăn
thai nhi và nhau đàn bà đẻ. Và, chuột cống thành phố cũng được coi là nguồn
thịt ngon lành.
Biết bao người ngộ độc vì ăn ốc sên, thịt cóc, thịt
chuột, có nơi chết cả gia đình. Còn môn thuốc chữa đói của me-xừ Lý Ban cũng
làm nhiều người trương bụng lên mà chết.
Những việc đó Hồ đều biết. Ngay cả ở chợ Đồng-xuân
(Hà-nội), Hồ cũng hóa trang (nhà nghề gián điệp mà) giả làm một người già có
bệnh ra mua tem thịt tiêu chuẩn 150gr một tháng, bị con bé mậu dịch viên bán
thịt vứt cho cục xương và nói: “Không có thịt, ăn tạm cục xương này, không thì
thôi!” Câu chuyện đó được nối dài thêm vào những “huyền thoại về Hồ”. Còn từ
con bé mậu dịch bán thịt, cho đến cửa hàng thịt, ban quản lý chợ v.v… chẳng ai
việc gì!!!
Cho nên trước khi chết, Hồ để di chúc mong nông
dân được tha thuế lại chỉ là trò tự đánh bóng cố hữu của Hoà, trút
cái khó khăn lại cho đệ tử. Nếu chúng “tha thuế” thì đó cũng là lệnh của Hồ;
nếu “không tha thuế” thì dân oán chúng mà vẫn ơn Hồ và tiếc vì Hồ đã chết nên
“cán bộ” làm sai tâm nguyện của Hồ. Đòn ma giáo này của Hồ còn nhằm
phối hợp với ý thứ tư trong di chúc của hắn.
4. Đừng làm ma to, cho Hồ, lãng phí của dân
Một số bồi bút cung đình, một số cây viết người nước
ngoài thuộc loại “dễ tính, vô trách nhiệm khi cầm bút” và “óc ít nếp nhăn” cứ
tô vẽ thêm vào cho Hồ là giản dị, tiết kiệm v.v… để “huyền thoại về Hồ” càng
thêm nhiều điều phét lác.
Trong lịch sử Việt Nam, trải dài hơn 4000 năm, chưa có
kẻ nào lãng phí máu xương, tài nguyên của Việt Nam như tên Việt gian Hồ chí
Minh. Lê long Đỉnh bất quá giết mấy ông sư. Gióc mía lên đầu cũng chỉ dăm ba
người, cho hổ ăn thịt cũng độ chục mạng. Trần thủ Độ có chôn sống cũng chưa đến
100 người thân tộc, sủng thần của nhà Lý. Ngay Gia Long, Minh Mạng cũng giết
dân khá nhiều, nhưng cũng chỉ tới số ngàn.
Còn Hồ, chỉ riêng số thanh niên cùng gia đình và bạn
bè quen biết của họ, bị Hồ bán cho mật thám Tây năm 1929 cũng đã ở con số hàng
ngàn. Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3 đề ngày 20-4-1935 viết:
“Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi
nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu
trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn một trăm hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:
a) Quốc biết rõ Lâm đức Thụ là một tên khiêu khích
nhưng vẫn làm việc với hắn.
b) Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp
hai bức ảnh, ghi rõ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên
của từ 2 đến 10 người bạn.
c) ở
trong nước, ở Xiêm (Thái-lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán đến trách
nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.”
Năm 1945, Hồ còn cho lệnh ám sát những người đối lập,
các đảng phái không cộng sản, kể cả nhóm troskít, cho đến tín đồ và chức sắc
các giáo phái cũng vài chục ngàn. Rồi cải cách ruộng đất của miền Bắc Việt Nam
cũng ở con số ngót nghét một triệu, chưa kể các trò ma quái khác, kể cả việc
xâm lăng miền Nam Việt Nam!
Khi còn sống, Hồ đã chứng kiến bao sự lãng phí trong các
ngày lễ, nào in ảnh màu (trước khi hoàn thành nhà máy in Tiến bộ) ở nước ngoài;
nào ảnh dệt của Hồ; tượng lớn tượng nhỏ của Hồ cũng như các thứ huy hiệu mang
hình Hồ v.v… cùng với sự lãng phí của các đệ tử của Hồ, có bao giờ thấy hắn
trừng phạt ai đâu. Hắn chỉ nêu chung chung lấy cớ siết chặt mọi nhu cầu thiết
yếu của dân mà thôi, như ủng hộ “miền Nam”, “anh Trổi chị Quyên” để rồi lính
ngụy và thanh niên xung phong tiết kiệm mặc quần áo cũ, trả lại quân phục mới;
công nhân thì làm thêm giờ, không đi phép năm; nông dân “xin” đóng thuế vượt
mức v.v… và tự túc mỗi năm 3 tháng lương thực đi “lao động nghĩa vụ” (tức làm
sưu); công nhân, xã viên hợp tác xã, cán bộ, nhân viên trong các nhà máy, cơ
quan cũng phải gánh thêm phần việc của nhau để mỗi năm 3 tháng đi “lao động
nông nghiệp”!
Cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam càng ác
liệt thì Hồ càng thẳng tay trấn lột nhân dân tàn bạo hơn. Nhà dân bị rỡ làm
cầu, làm đường không bồi thường. Các nghĩa trang bị san bằng lấy cớ làm trận
địa phòng không. Học sinh mẫu giáo phải đóng tiền “làm hầm” trú ẩn, mà lạ nỗi
là hầm cũ còn đó mà cứ mỗi năm hoặc nửa năm lại đóng mới lại. Nhưng, tàn bạo vô
lương tâm nhất là Hồ cho tổ chức đám cưới các thương bệnh binh nặng với các nữ
thanh niên, nhằm trút gánh nặng toàn bộ cho người phụ nữ nông dân. Vì thế mà
xảy ra biết bao vụ vợ giết chồng hoặc tự tử để “thoát nợ đời”.
Tất cả sự lãng phí của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt
gian của hắn đã đẩy số phận đa số phụ nữ miền Bắc thành điếm! Muốn vào làm việc
ư; muốn được vào biên chế ư; muốn được nhập hộ khẩu ư; muốn được lên lương ư;
muốn được đi học hay đi lao động ở nước ngoài ư; muốn vào đại học ư, và v.v…,
hàng trăm thứ muốn. Người phụ nữ chỉ cần chấp nhận (nhiều khi không chấp nhận
cũng không thể được) mang hiến cái phao câu của mình cho cấp có thẩm quyền (cán
bộ tổ chức, cấp ủy mafia đỏ, công an hộ tịch, giám đốc, chủ nhiệm, bộ trưởng,
thứ trưởng v.v…). Đâu có phụ nữ là cũng có tình trạng đó, có thể nói là 100%.
Vì từ trên Hồ đến Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Hoàng
văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Tố Hữu, Nguyễn văn Trân, Ung văn Khiêm, Nguyễn Côn,
Hoàng Tùng, Trần danh Tuyên, Nguyễn đình Thi, Bảo định Giang, Lưu trọng Lư,
Nguyễn tư Thoan, Vũ Đại, Vũ Quang, Nguyễn trọng Vĩnh, Hồng xích Tâm v.v… cho
đến cấp cơ sở như tên Phán (đồng hương của Phạm văn Đồng) chỉ là cửa hàng
trưởng cửa hàng văn phòng phẩm Tràng Tiền (Hà-nội) mà có 42 nữ nhân viên thì
hắn đã “gặm phao câu” của tới 40 nàng kiều!!!
Chuyện hiến thân cho cấp trên phổ biến đến mức, trung
tá ngụy quân Hà minh Tuân, nhà văn kiêm giám đốc Nhà xuất bản Văn học phải viết
cuốn “Vào đời” để kêu gọi dư luận xã hội. Nhưng kết quả ngụy quyền Hồ chí Minh chẳng những
không sửa sai mà còn cất chức và cất bút của nhà văn Hà minh Tuân và bọn chúng
cố tình cho tên của ông ta vào lãng quên. Những Nguyễn Khải, Lê Lựu v.v… có
thời là đàn em của Hà minh Tuân, nhưng có ai dám nhớ đến nhà văn dũng cảm đó!!!
Ngay cái ngụy quyền mafia đỏ, của Nông đức Mạnh bây
giờ, vẫn còn những gương mặt tự hiến phao câu nên đã nhẹ nhõm leo nhanh trên
bậc thang quan lại đỏ, như Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Võ thị Thắng, Nguyễn
thị Bình (phó chủ tịch nước), Trương thị Mỹ Hoa (phó chủ tịch quốc hội) v.v…!!!
Cù thị Hậu xuất thân từ thợ dệt ở nhà máy dệt
Nam-định. Để trở thành chiến sỹ thi đua, đã phải “chiều lòng” từ cấp ủy nhà máy
đến tỉnh, rồi cả “phóng viên thường trú của Việt Nam thông tấn xã cho đến ban
thi đua bộ công nghiệp nhẹ, ban thư ký tổng công đoàn”. Vì thế mà trở thành đại
biểu “cuốc hội”, mỗi lần đi họp thì chủ yếu chờ mua hàng đặc biệt do thương
nghiệp phục vụ “cuốc hội”. Đến mức, chính Hồ còn toe toét cười hỏi: “Các cô
chú ở thương nghiệp có chuẩn bị nhiều hàng cho đại biểu yên tâm họp không?”
Mỗi lần như thế, bác sỹ Trần duy Hưng lại nhanh nhẩu đứng lên hô: “Hồ chủ tịch
muôn năm!” Cả hội trường hô theo ầm ĩ khen: “Bác tâm lý thật”!
Đúng vậy, do nghề gián điệp, chỉ điểm nên Hồ rất “tâm
lý”. Trong di chúc thì dặn đệ tử tha thuế, dặn đừng làm ma to cỗ lớn, đúng là
giản dị thật. Nhưng sự thực là hắn đã nghĩ đến cái “mả” của hắn từ trước 1960.
Khi theo lệnh Hồ, Trường Chinh ký lệnh tập trung cải
tạo tất cả những người Hồ cho là không thích hợp cho chế độ thực dân đỏ của Hồ,
vào ngày 20-6-1961, thì thực tế đa số đã bị bắt giam từ 1960, cùng lúc với “cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Cục lao cải của bộ công an (sau này
gọi là cục quản lý trại giam) là đơn vị cục vụ duy nhất có chỉ huy trưởng là
cấp tướng: thiếu tướng Lê hữu Qua (ngay vụ tổ chức cũng chỉ là đại tá Hoàng
Thao; chánh văn phòng là đại tá Hồng Hà; viện trưởng viện khoa học công an là
đại tá Mai văn Mạc). Cái “cục lao cải” quan trọng đến mức phải do cấp tướng chỉ
huy vì nó có một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng mà Hồ giao cho Trần quốc Hoàn. Đó
là xây hồ Suối Hai ở Ba-vì, là nơi, theo thầy địa lý, có miếng đất đế vương,
nhưng phải cải lại một chút vì xưa kia đã bị ba Tàu yểm (hình như thời Cao Biền
đô hộ). Cho đủ bộ vì, phải có Hồ Suối Hai để thăng bằng với đỉnh núi Tản. Hồ
đích thân lén chôn những chiếc răng của hắn, gọi là có cốt, ở mảnh đất “phát
vương” đó. Nhưng hắn “đa nghi” nên chơi trò “năm ăn, năm thua”. Nghĩa là, ngộ
nhỡ mảnh đất đó không phát thì nếu chôn cả cái thây của hắn ở đó, có thể có kẻ
phá (hắn biết có lắm kẻ thù là nhân dân); còn chôn răng không thôi cũng sợ có
thể phát mà cũng có thể không. Vì thế hắn muốn có cái lăng nằm chình ình giữa
thủ đô, để chí ít thì cũng như Lê-nin, và cũng sẽ hy vọng là “vinh quang” mãi
mãi!
Trong lúc đang chiến tranh, nhân dân còn đói khổ mà
lại ghi vào di chúc là xây lăng thì chỉ có kẻ ngu! Hồ chưa bao giờ làm việc gì
mà không “thủ đoạn, ma giáo”. Cho nên hắn lại diễn lại vở kịch cũ. Đó là những
ngày đầu (sau cuộc chiến bùng nổ ra ngày 19-12-1946) chạy lên Việt-Bắc, Hồ
không chịu được mùi thuốc rê, vì hắn chỉ quen hút ngày vài bao thuốc lá thơm
Craven A, là thứ chỉ có thể mua được ở Hà-nội, là nơi quân Pháp tạm thời quản
lý. Cho nên hễ
“vào cuộc họp là Hồ ra công ho”. Và, theo đề nghị của Phạm văn Đồng, “trung
ương mafia đỏ” (lúc đó còn chưa công khai) gồm Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ
nguyên Giáp, Hoàng quốc Việt, Nguyễn Khang, họp và ra nghị quyết bắt buộc Hồ
phải hút thuốc thơm Craven A để khỏi ho. Và, tất nhiên Hồ tôn trọng và chấp
hành ý “trung ương”. (Điếm thật!!!). Người được giao trách nhiệm lo cung
cấp thuốc lá thơm cho Hồ hút, nghĩa là phải cử người lén vào Hà-nội mua, là
Trần dụ Châu, bèn được Hồ cho cái lon đại tá ngụy quân, phụ trách quân nhu.
Lợi dụng việc đó, Trần dụ Châu đã dùng tiền của Chính
phủ Liên hiệp đa đảng, lãng phí vô tội vạ. Thị trấn Thanh-cù (Phú-thọ) là nơi
ăn uống xa hoa của thuở đó, chủ yếu là nhân viên dưới quyền Trần dụ Châu. Và,
hang ổ của hắn ở Ao-châu (huyện Ấm-thượng, Phú Thọ) thì tiệc tùng thâu đêm.
Chính đại biểu quốc hội khóa 1 là giáo sư Đoàn Phú Tứ, đã chứng kiến các vụ
việc đó, giáo sư viết thư “hạch tội” họ Hồ. Thế là Hồ cho lệnh tử hình Trần dụ
Châu ngay. Hồ đi quả bất ngờ này nên Trần dụ Châu chưa kịp khai báo gì nhiều,
và chuyện đến đó là hết, không lôi theo các vụ việc khác như vụ Phạm văn Đồng
cưỡng ép một “cháu” học sinh ở miền Nam ra, chẳng hạn. Hồ bèn đặt vào cái ghế
chủ nhiệm quân nhu một nhân vật do bề tôi thân cận và trung thành của Hồ là
Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ hay anh Cả Đỏ) giới thiệu. Đó là Trần đăng Ninh,
được đeo lon thiếu tướng và được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ
từ đại hội 2 (1951). Ngoài việc cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ, Trần đăng Ninh
còn là kẻ kiếm gái người dân tộc thiểu số cho Hồ chơi. Nạn nhân Nông thị Xuân
chính là do Trần đăng Ninh lựa chọn và “làm công tác tư tưởng” trước khi tiến
cung!
Việc làm công tâm của đại biểu Quốc hội khóa 1 là Đoàn
Phú Tứ càng khiến Hồ nóng lòng ra tay “tiêu diệt âm thầm” Chính phủ Liên hiệp
đa đảng và Quốc hội như đã trình bày ở những phần trên.
Cho nên trong di chúc để công khai với toàn dân và
quốc tế thì Hồ đóng trò “thanh liêm”, nhưng bên trong Hồ cho khẩu
lệnh khác, vì thế mới có sự nhất trí của chính trị bộ mafia đỏ là xây lăng,
ướp xác cho Hồ, dám làm trái di chúc của Hồ khi thây Hồ còn chưa kịp lạnh và
đã sẵn sàng đội ngũ chuyên gia ướp xác Nga-xô từ ngàn dặm kịp thời có mặt!
Thật là mọi chuyện rõ như ban ngày. Có mù như sẩm thì
cũng sờ bằng tay hay nghe bằng tai được!
Cái lăng của Hồ là một “tội ác tàn bạo” nữa của
Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn giáng lên đầu nhân dân Việt Nam. Không kể tiền bạc, tài vật, mà nó
là kết tinh của bao khối máu dân, bao giọt nước mắt của những người có chồng
con chết trong khi chuyên chở gỗ, đá để xây lăng cho hắn, nếu có hứng chắc cũng
nhiều như nước ở thác Bản Giốc mà thằng con hoang của Hồ là Nông đức Mạnh vừa
dâng cho ba Tàu bành trướng bá quyền.
Hãy thử nghĩ xem, những năm đó, chiến tranh do Hồ phát
động xâm lược miền Nam Việt Nam, đang ở thời kỳ ác liệt cả trên không, trên bộ
và sông biển. Vậy mà gỗ là lấy từ rừng núi Tây nguyên chở ra Hà-nội. Tìm
gỗ và lấy gỗ cũng phải bao nhiêu mạng người. Rồi lại qua đường gọi là “đường
mòn Hồ chí Minh”, cứ mười phần thì tới Hà-nội chưa được một. Số còn lại cùng
những đơn vị chuyên chở, gỗ và máu xương quyện lại với nhau và mãi mãi nằm lại
trên đường đi! Còn đá xây lăng là do mẫu quốc Nga-xô ban cho, lấy từ vùng
Caucase, chở bằng tàu biển đến phao “0” ở Hải-phòng. Từ đó, công binh ngụy quân
cộng sản phải chở ngầm bằng phao vào vì cảng Hải-phòng bị bỏ mìn phong tỏa.
Biết bao nhiêu con người Việt Nam nữa lại chết vì chuyên chở đá.
Xã hội Việt Nam trải qua bao triều đại, cũng có nhiều
hôn quân, cũng có nhiều giai đoạn bị cai trị bởi tụi xâm lược phương Bắc (tức
ba Tàu), và cho đến thực dân Pháp nữa, chưa bao giờ máu xương nhân dân Việt Nam
lại bị sử dụng một cách tàn bạo và vô ích như thế. Các vua chúa ngày
xưa cũng chẳng bao giờ khi còn sống bắt dân thờ sống trong từng nhà.
Và, có xây lăng cũng chẳng bao giờ xây lúc đang có chiến tranh. Cũng chẳng bao
giờ xây chình ình giữa lòng thủ đô như họ Hồ. Đã thế, sau khi lăng được hoàn
thành, bọn đầu lãnh mafia đỏ còn ra lệnh đưa chỉ tiêu cho các địa phương, cơ
quan, trường học v.v… theo kế hoạch điều động dân luân phiên đưa nhau viếng
lăng, đảm bảo lúc nào cũng đông người viếng đều đặn. Biết bao lãng phí về công
lao động, xăng dầu, xe cộ để phục vụ cho sự điên loạn tàn bạo của họ Hồ và tập
đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn.
Rồi bây giờ, họ Nông lên cầm quyền, hắn làm lễ dâng
hương cho con yêu tinh râu xanh, cha đẻ của hắn là họ Hồ, cùng lúc dâng hương
cho cả Trần Phú và Hà huy Tập, cố tình làm nhòa đi những báo cáo của Trần Phú
và Hà huy Tập đã méc với quốc tế 3 các thứ tội của cha hắn. Đồng thời, Phan
văn Khải ra nghị quyết về “lễ hội”. Có nghĩa là tập đoàn đầu nậu mafia đỏ chuẩn
bị dựa vào “truyền thống dân tộc” để tiến dẫn những tên cộng sản Việt
gian ác ôn, có nợ máu với nhân Việt Nam, vào chiếc ghế “thành hoàng” ở các làng
xã!!!
Ngày cái lăng họ Hồ “khai trương”, chỉ có “lãnh đạo”
các cơ quan, đoàn thể đi xem trước, có một số phóng viên các báo, đài cũng được
đi. Ấy thế mà
chẳng biết canh gác ra sao để đến nỗi một bài thơ châm biếm đã dán ở gốc cây, nội
dung như sau:
“Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng
Xác ướp da xương, tim óc không
Nằm quan tài kính cho người ngắm
Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông
Sở thú kề gần dăm bảy bước
Thú người, người thú nực cười không!!!”
Ai làm thơ, ai dán, chắc cho đến nay bọn mafia đỏ vẫn
chưa điều tra ra. Nhưng, rút kinh nghiệm “quả hớ” đó, kể từ ngày “khánh thành
chính thức” cho đến về sau, nội quy bắt gửi lại đồ, người đi viếng phải tự kiểm
soát nhau, không được tách ra đi một mình và v.v… Đến lúc ấy thì tự cái xác của
Hồ, dù chỉ còn da; tim, gan, óc, phèo, phổi (không biết cái tạo ra Nông đức
Mạnh còn không) đều bị moi ra hết, thế mà vẫn bị “thối”. Cái mũi chó săn của Hồ
bị lỗ chỗ, phải đắp sáp. Và “nghe nói” cái xác của Hồ, thứ thiệt thì ngâm thuốc
dưới hầm, còn cái trưng ở trong quan tài là bằng sáp nặn mà thôi.
Quả là họ Hồ, khi sống, lúc chết đều là giả dối hết!!!
Còn một câu hỏi nữa, đó là ngày chết của Hồ. Đầu tiên
là 3-9-1969. Sau do “tiết lộ” của Vũ Kỳ rằng ngày đó là sai, do nhóm Lê Duẩn,
Lê đức Thọ tự ý thay đổi, chứ Hồ chết vào đúng 2-9-1969! Và, thế là tụi mafia
đỏ Việt Nam cho đổi lại ngày chết của Hồ cho đúng với tiết lộ của me-xừ
Vũ Kỳ, gia nô tin cẩn của Hồ!
Chuyện vô lý đến thế mà cũng có nhiều người tin. Cả
cái gọi là di chúc của Hồ với bút tích của hắn hẳn hoi mà bọn Duẩn, Chinh,
Đồng, Thọ v.v… còn làm ngược lại như đừng “ma to cỗ lớn, lãng phí” thì
chúng còn “lãng phí không chỉ tiền của trong xây lăng, mà cả xương máu”. Mỗi
đời “tổng bí thư” lại bổ sung thêm những “chi tiêu lãng phí” cho cái lăng đó.
Như bây giờ là thành lập bộ tư lệnh bảo vệ lăng; tổ chức chào cờ trước lăng
hằng ngày v.v… “Tha thuế” vẫn là chuyện “hứa lèo”. Nếu có thi
hành chút chút thì như bài tây ba lá, rút chỗ này, chập chỗ kia, nghĩa là tăng
thêm các khoản đóng góp đủ loại nghĩa vụ! Đời Hồ đã bán đất, bán biển cho ba
Tàu (các thư do Ung văn Khiêm, rồi đến Phạm văn Đồng gửi cho ba Tàu còn đó);
đời con là Nông đức Mạnh lại còn tặng đất, tặng biển cho ba Tàu bạo hơn. Thế mà
nay chỉ vì tên gia nô mà răm rắp sửa sai cái việc chẳng có chút gì quan trọng. Vì,
đến ngày sinh của Hồ cũng toàn là “rổm” cả. Sao không sửa lại đi?
Vậy tại sao lại sửa ngày chết của Hồ?
Trước khi trả lời câu này, xin lưu ý bạn đọc rằng tập
đoàn Việt gian Hồ chí Minh ra lệnh “xóa bỏ mê tín dị đoan”, là xóa đối với nhân
dân thôi, còn bọn chúng thì làm ngược lại. Từ Hồ trở xuống, từ Tố Hữu trở lên,
thằng nào cũng rất tin vào tướng số, địa lý, tử vi.
Hoàng văn Hoan căm thù nhà văn Vũ Trọng Phụng đến mức
dựa vào vụ “nhân văn – giai phẩm”, ra “khẩu lệnh” bắt hủy bỏ và cấm in, phổ
biến mọi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có hai nguyên nhân để Vũ Trọng Phụng bị
“căm thù”, mặc dầu ông đã chết từ 1940, mà theo lời nhà thơ trào phúng Tú Mỡ,
khi bịnh nằm ở khu an dưỡng đã “tâm sự” với người viết rằng:
1- Thấy Vũ Trọng Phụng nổi tiếng nên Trường Chinh móc
nối muốn đưa Vũ Trọng Phụng gia nhập “cộng sản”, nhưng Vũ Trọng Phụng từ chối,
lại còn nói, đại ý: “Bọn các anh chỉ mượn danh cách mạng để làm tiền những
người yêu nước, dùng vào những việc đen tối!”
2- Trong tác phẩm “Giông tố”, lão già “cách mạng” kiêm
thầy địa lý mà Vũ Trọng Phụng mô tả chính là mượn hình ảnh ngoài đời của Hoàng
văn Hoan vậy.
Đỗ Mười từng bị điên phải sang Trung cộng chữa chạy,
có thằng con trai cũng “điên điên, khùng khùng”. Một giáo sư sử học cũng có
tiếng tăm, chuyên nghiên cứu tử vi, có dịp xem tử vi cho Đỗ Mười từ khi Mười
còn là phó thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, đã phán rằng Đỗ Mười sẽ phát đến bậc
đầu lãnh số một của tập đoàn mafia đỏ. Và, khi mới ở ngôi vị thứ 2, sau Nguyễn
văn Linh, thì Đỗ Mười đã “mời” viên giáo sư sử học đó làm cố vấn chìm. Qua Đỗ
Mười, viên giáo sư sử học có điều kiện “cố vấn tử vi” cho hầu hết tụi đầu nậu
mafia đỏ, kể cả gia đình nhà anh em Lê đức Thọ. Còn Trường Chinh thì “cả họ”
nhà hắn, cả gái cả trai đều say mê tử vi.
Chính nhân vật “cố vấn tử vi” đó đã trình bày rằng
ngày giờ Hồ chết không ổn, hãy bỏ ngày thật 3-9 đi mà đổi thành ngày 2-9-1969
thì hay hơn. Và, nếu không tin ở ngày giờ xấu, tốt thì cũng nên thấy cái việc
không hay là ngày hôm trước thì kỷ niệm “dựng nước” (tức quốc khánh), ngày hôm
sau đã “đại tang”! Chi bằng cho chung vào một ngày vừa kỷ niệm “dựng nước” vừa
“nhớ” người “có công dựng nước”. Cả bọn đầu lãnh mafia đỏ đã ủng hộ ý kiến đó,
nên mới có cái vụ “tiết lộ” của me-xừ Vũ Kỳ.
Câu chuyện trên do chính giáo sư Từ Chi kể lại, tên
của viên “cố vấn tử vi” sẽ được nêu ra vào lúc thích hợp.
Nhiều người đã được giáo sư Từ Chi kể chuyện này.
Nhưng có điều kỳ lạ là có người biết như vậy nhưng vẫn a dua và cổ võ mọi
người, cùng a dua tấn công nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ, cố tình bỏ qua những phi
lý rành rành “như canh nấu hẹ”.
ở đây không phải là sự vô tình, mà “người
ta cố ý hư cấu” các sự việc, diễn dịch các sự kiện thật, giả lẫn lộn. Vì
sao vậy?
Vì tất cả đều biết rằng Hồ và cái thây ma của hắn là
chỗ sinh tử của tổ chức Việt gian mafia đỏ. Nếu đánh vào đó, nghĩa là tập trung
công sức vạch bộ mặt thật của họ Hồ ra thì tổ chức Việt gian mafia đỏ sẽ tan vỡ
ra từng mảnh.
Chính vì thế, những kẻ có liên quan đến họ Hồ có
thể hạ bệ nhau bằng mọi thủ đoạn, nhưng lại nhất trí với nhau bảo vệ và đề cao
họ Hồ, như kiểu giữ cái nhãn đã được quốc tế và trong nước cầu chứng.
Bọn họ ít nhiều đều đã có cổ phần trong cái công ty Hồ chí Minh, cũng vì quyền
lợi cá nhân (hoặc nhóm) nên giả mù không dám phanh phui chuyện kinh doanh đĩ
điếm, bài bạc, ma túy của cái công ty đó. Họ không ngu nhưng họ không trung
thực và không là kẻ sỹ như nhiều người lầm tưởng.
Cho nên nếu chúng ta không tỉnh táo, vừa cổ võ họ vừa
nuốt những lập luận đề cao họ Hồ của họ, có nghĩa là chúng ta chỉ chống vài tên
“đang cầm quyền”, chứ không phải là chống toàn bộ tổ chức Việt gian và hệ lụy
của nó.
Chẳng cần ai chống thì Trường Chinh cũng thay Lê Duẩn,
rồi Nguyễn văn Linh lại thay Trường Chinh; Đỗ Mười thay Nguyễn văn Linh; Lê khả
Phiêu thay Đỗ Mười và mới đây Nông đức Mạnh lại thay Lê khả Phiêu.
Cứ xét những bài viết mạnh bạo của cây bút “chống đối”
xuất sắc là ông Trần Khuê thì thấy y như cái “đèn kéo quân”. Vừa mới đề cao Đỗ
Mười thì đã quay ra khen Lê khả Phiêu, và rồi lại tin ở sự “ôn hòa” của Nông
đức Mạnh. Sau Nông đức Mạnh sẽ đến ai đây? Vì cả ba thằng Mười, Phiêu, Mạnh
đều vừa cấu kết bán đất, bán biển cho ba Tàu cộng! Bọn chúng có bán đất, bán
biển thì cũng chỉ là đi theo cái việc họ Hồ đã làm từ thập niên 50 mà thôi!
Cho nên đấu tranh cho dân chủ là phải đấu tranh chống
từ nguồn gốc sinh ra độc tài mất dân chủ.
Cái nguồn gốc đó là chính cá nhân họ Hồ; là sự lựa
chọn đường lối chính trị của họ Hồ; là tổ chức Việt gian mafia đỏ của Hồ, mang
cái tên “đảng cộng sản Việt Nam” và cái ngụy quyền “cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”.
Bỏ quên Hồ (chứ chưa nói đến đề cao Hồ) mà chỉ tấn
công Lê Duẩn hoặc Mười, Phiêu, Mạnh thì chẳng khác gì giặc Minh xưa kia giết Lê
Lai để thoát Lê Lợi vậy.
Lê Duẩn, Lê đức Thọ chỉ là những mục tiêu giả hoặc thứ
yếu. Nếu thần tượng Hồ chí Minh của tập đoàn mafia đỏ đổ thì sẽ lôi theo không
chỉ Duẩn, Thọ v.v… mà sẽ làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tổ chức – cả vật chất cả
tinh thần – của tập đoàn Việt gian mafia đỏ, ngụy quyền Hà-nội hiện nay.
Chỉ có như vậy mới thực hiện được sự đoàn kết trong các
tầng lớp nhân dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, để xây dựng dân chủ và bảo
vệ nhân quyền nhằm xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, phồn vinh, trên cơ sở
đó gìn giữ và thu hồi đất đai, sông biển của Việt Nam mà tập đoàn Việt gian Hồ
chí Minh đã dâng cho thế lực bành trướng bá quyền nước lớn, là Trung cộng.
Nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói
riêng phải thấy được rằng Hồ chí Minh là tội phạm đầu sỏ, tội phạm chính yếu,
đã lèo lái cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của hắn để đầy ải người dân Việt
Nam trong thân nô lệ, trong kiếp nghèo đói và cũng Hồ là kẻ duy nhất trong lịch
sử Việt Nam đã mang đất đai, sông biển của Việt Nam dâng cho ba Tàu. Tất cả
nhân sự trong tổ chức “cộng sản Việt gian” đều do Hồ đích thân lựa chọn, đề
bạt, giao trách nhiệm thi hành các chính sách phản dân, hại nước của hắn.
Thí dụ: Năm 1958, Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng
ngụy quyền Hồ chí Minh gửi cho Chu ân Lai (thủ tướng Trung cộng) ủng hộ và công
nhận việc Trung cộng chiếm các quần đảo Hoàng-sa và Trường-sa, là thừa lệnh ai?
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen