Trân trọng
Moderator
Việt Thường
Đầu năm 1967
Chỉ còn một tuần lễ nữa là Tết Đinh Mùi. Hà-nội
năm đó lạnh lắm. Bến Phà-đen lại càng lạnh vì gió từ mặt sông Hồng đưa lên.
Trong mặc áo bông trấn thủ, ngoài mặc áo bông xanh cổ lông mà tôi vẫn thấy
người run bần bật. Bến tàu thủy đi Thái Bình đây rồi, nhưng sao tối thui và
im lặng thế. Đường lầy lội, tôi vừa dựng xe đạp thì có bóng đèn pin loáng
trên mặt tôi và tiếng cười vui của giám đốc công ty vận tải đường sông
Hà-nội:
- Chào
anh Trọng Kính*. Anh ra sớm thế. Nửa tiếng nữa mới nhổ neo.
Tôi chào lại và nhìn xuống bến, Chiếc tàu Giải Phóng nằm im lìm. Một thuyền
viên nhắc giùm tôi xe đạp lên boong tàu. Thấy tôi chẳng nói gì, ông giám đốc
gặng hỏi:
- Anh
có nhận xét gì không?
- Được
lắm. Ngoại trừ một ánh đèn pin vừa xong của anh còn thì tối đen như mực.
Giám đốc cười hỉ hả:
- Này,
xin báo cáo với anh là hành khách đã xuống hết rồi đấy, thế mà không một ánh
lửa, không một tiếng ho. Chúng tôi đã chấp hành triệt để lệnh trên về phòng
không nhân dân. Máy bay Mỹ có đến lúc này thì cũng mù tịt chẳng thấy gì hết.
Anh nhớ nhấn mạnh điểm này trong bài viết của anh nhé.
Tôi phì cười:
- Các
anh yên tâm. Chúng tôi có nhiệm vụ viết để động viên chứ có bao giờ phê bình
đâu. Lãnh đạo bộ giao thông, lãnh đạo sở giao thông thành phố và cả bộ biên
tập báo bên tôi cũng đã căn dặn rồi. Khác tý chút là khỏi in, anh đừng lo.
ùm… ùm
Còi tàu thủy vang lên trên mặt sông, trầm trầm, loãng dần vào sương mù.
Thuyền trưởng Bách từ dưới bến đi lên chào tôi:
- Báo
cáo anh, được sự chỉ đạo của đảng ủy và ban giám đốc công ty, được học tập về
điều lệnh phòng không nhân dân, tàu Giải Phóng II chúng tôi đã có quyết tâm
thư gửi lên Hồ chủ tịch, lên trung ương đảng, lên chính phủ, lên quốc hội,
lên đảng đoàn và đồng chí bộ trưởng giao thông vận tải, lên tổng công đoàn,
lên đoàn thanh niên lao động, lên thành ủy và ủy ban thành phố, lên đảng ủy
và ban giám đốc sở giao thông vận tải thành phố, lên hội đồng phòng không
thành phố, lên liên hiệp công đoàn Hà-nội… kiên quyết không để xảy ra thiệt
hại về tài sản và… và… về người nếu giặc Mỹ dám đánh vào bầu trời Hà-nội. Tất
cả thuyền viên đều có quyết tâm thư hy sinh thân mình cứu tàu, cứu máy nếu
tình huống xấu nhất xảy ra.
Tôi không dám cười vì lời chào tràng giang đại hải thế. Đã quen với lối ăn
nói “mới” từ sau 1954 đến nay, dù là ở cấp bộ hay cấp tổ; dù là ở cơ quan văn
hóa hay đội vệ sinh, thì đều nói, nghĩ và viết theo cái mẫu có sẵn như vậy.
Tôi cũng chẳng giận vì cứ phải rét muốn chết mà cũng chưa được xuống tàu
tránh gió, tránh lạnh. Cũng như bạn đọc báo, họ cũng phải đọc cái lối viết
theo mẫu của chúng tôi, y như ta điền mẫu đơn vậy. Những chỗ chấm chấm thì
điền tên người, ngày, tháng, năm sinh; tên cha, tên mẹ và v.v…, chỉ khác nhau
ở chỗ đó. Nếu tiêu đề các đơn từ có phần mở đầu là “Việt Nam dân chủ cộng
hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”; thì mở đầu bài báo cũng có cái khuôn
chung như vậy: “dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng và Hồ chủ tịch”.
Thuyền trưởng Bách bố trí cho giám đốc công ty vận tải đường sông Hà-nội –
thủ trưởng của anh ta – và tôi ở phòng của thuyên trưởng. Vừa lên boong tàu
chưa được vài phút thì tàu rời bến sau một hồi ùm… ùm… ùm. Tiếng còi tàu thủy
nghe lúc nào cũng có cái vẻ chia ly, buồn bã. Tôi vào phòng lái xem thuyền
trưởng Bách lái tàu đi trong sương mù. Sương bao bọc làm cho sông chẳng có
bến, có bờ, có đầu, có cuối. Mùa này nước sông cạn. Tàu chạy chầm chậm, tiếng
máy run nhè nhẹ. Tôi nhìn trong đêm cái dáng cao lớn của thuyền trưởng và
tưởng như con sông in trong đầu anh. Chợt có tiếng gõ vào kính, ông giám đốc
làm hiệu gọi tôi ra. Chẳng cần nghe ông ta nói, tôi cũng hiểu đây là cái
khoản “ấm bụng”, nghĩa là tý rượu “quốc lủi” bên Từ-sơn và… món nhậu thì thật
là tươm tất, phong phú.
Ca-bin thuyền trưởng rộng hơn chiếc giường cá nhân tý chút, mấy ô kính có rèm
vải che kín. Khi cửa mở, ánh đèn vàng yếu ớt hắt ra. Mâm rượu đầy ắp, nào
thịt chó luộc, dồi chó, cả một con ngỗng quay đã chặt, xếp đến tận miệng
chiếc nồi nhôm, rồi lạc rang và các thứ rau với bánh đa nướng.
Ông giám đốc xoa tay cười khô khan (chắc là nước miếng đang tứa ra):
- Ta
chiến đấu đi anh. Thằng Bách còn phải lái tàu.
- Lính
vận tải của các anh, cả bộ cả thủy, đều hào phóng thật.
Ông ta ừ à, còn mãi vắt chanh vào chén mắm tôm, rồi chế thêm một thìa rượu.
Cái món nước chấm này bốc lên ngan ngát làm dạ dày cồn cào. Rượu uống bằng
chén ăn cơm. Nó tê tê, êm êm, nóng ran trong miệng, ấm áp lan xuống họng,
xuống bụng; mùa đông đang bị đẩy ra:
Tôi cắn một miếng giềng, cay cay đầu lưỡi. Cắn thêm một miếng ớt, cả miệng
nóng lên. Miếng thịt chó luộc, phần má của con chó, ròn mà không quá mỡ; vài
cánh rau húng, vài hạt lạc và mẫu bánh đa lớp rớp trong miệng… làm thần kinh
lưỡi đê mê, làm đầu dịu lại. Chợt ngửng mặt lên, phía đầu giường của thuyền
trưởng, ngay sát trên đầu ông giám đốc ảnh của ông Hồ chí Minh lồng khung
kính đặt trên bàn thờ tổ quốc, mặt đỏ au, gần bằng màu cánh hoa hồng cắm
trong lọ cạnh đấy. Chỗ nào ông ấy cũng trườn mặt ra, tài thật! Tôi e hèm:
- Này
ông giám đốc, ai ở sau lưng anh kìa?
- “Cụ”
chứ ai. “Cụ” cũng cảm thông cho lính tráng gian khổ quá nhiều phải “cải
thiện” mới có sức phục vụ “Cụ” và cách mạng chứ.
Tôi vờ làm giọng nghiêm:
- Các
anh mua rượu ở đâu? Tiền đâu mà các anh ăn tiêu như thế này?
Vẫn cái giọng lúng búng mồm đầy thịt:
- Tất
cả đều là “lộc” của “Cụ” cả. Ai bảo “Cụ” cho phép mấy thằng tỉnh ủy Hà-bắc
được nấu rượu lậu để nộp cho Ban bảo vệ sức khỏe của trung ương làm rượu
thuốc. Ai bảo ban chủ nhiệm các hợp tác xã cho vợ con và tay chân đi buôn
chuyến. Và… và… “Cụ” lại cho con quản lý đội tàu này…
Ông ta cười ha hả, hẳn lý thú vì câu nói có duyên của mình, bắn cả thức ăn
trong miệng ra. Một mẩu thịt dính vào mặt tôi. Thế là cái hứng “nhậu” của tôi
lắng xuống. Hết cơn cười, ông ta lại nói:
- Cánh
nhà báo các anh lạ tỏng gì nữa mà giả vờ. Lương thằng Bách mà có bảy chục một
tháng thì ăn gì, chưa nói đến thuyền viên, làm sao mà thi đua cho nổi, làm
sao động viên chúng nó được. Cho nên tôi lờ đi, một thứ giao kèo ngầm mà, cho
chúng nó chở ít hàng lậu, khách lậu, bán trộm ít dầu, nhớt để cải thiện. Miễn
là chúng nó phải hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch là được. Anh xem, từ ngày tôi
về làm giám đốc ở đây, ba năm liền là đơn vị “lao động xã hội chủ nghĩa” rồi
đấy, năm rồi được nhận lẳng hoa của Hồ chủ tịch.
Đúng là tôi biết, còn nhiều hơn nữa, cả cái khoản tàu, các xà-lan tự hành
phải “nộp cống” cho ông; rồi ông lại “nộp cống” lên ban giám đốc và đảng ủy
của sở và sở lại “nộp cống” lên thành và bộ. Chỗ nào cũng thế cả. Có khác là
từ tháng 8-1965, Mỹ ném bom ra miền Bắc, thì cánh vận tải cả ô-tô, tàu thủy,
xà-lan và tàu hỏa – là vớ bẫm nhất. Bọn họ giàu nhanh như thổi và dễ… lấy vợ.
Giáo sư, bác sỹ và… nhà báo thì vẫn cứ nghèo mạt rệp.
Tôi tụt khỏi giường, quờ chân tìm đôi dép lốp. Ông giám đốc hỏi:
- Đi
đái hả? Lạnh lắm, hé cửa, ghếch nòng súng đái mẹ nó ra ngoài boong ấy. Tôi
vẫn làm thế đấy, không thì cụt hứng vì đi với lại.
- Anh
ngồi lai rai đi, tôi tạt xuống xem hành khách sinh hoạt ra sao mới biết đường
mà viết chứ.
Cánh cửa ca-bin khép lại mà tôi còn nghe tiếng cười “nịnh” của ông giám đốc
đuổi theo. Báo chí tuy nghèo nhưng lúc này lại có sức mạnh, nhất là từ khi
ông Hồ chí Minh đề ra việc biểu dương “người tốt việc tốt”, “người thật việc
thật”, coi đây là một trong các biện pháp xây dựng “con người mới xã hội chủ
nghĩa”. Những người được báo chí biểu dương dễ được nhận huy hiệu của “Hồ chú
tịch”, đấy là sự thoát ra ẩn số khỏi cái đám quần chúng, để đứng ở ngõ vào
“đại lộ quan lại”. Những đơn vị được biểu dương sẽ đạt thành tích thi đua, toàn
đơn vị được nâng quỹ tiền khen thưởng, nâng quỹ phúc lợi và bộ tứ lãnh đạo –
đảng, chuyên môn, công đoàn, thanh niên – sẽ được nâng lương, đề bạt ở chức
cao hơn hoặc cho phép đơn vị phình to ra. Cho nên các tỉnh, các ngành đua
nhau họp báo, chiều chuộng cánh báo chí. Họ tưởng mấy thằng cha viết báo
quyền hành lắm đấy. Sự thật thì họ có tiếp đãi nồng hậu hay không cũng chẳng
sao… Còn nhà báo chỉ ngồi nhà cũng viết được. Vì tất cả là dựa vào các loại
báo cáo của các ngành – do tuyên huấn đảng ủy cơ sở soạn thảo – đã được đảng
ủy các cấp thông qua, từ số liệu mọi loại chỉ tiêu, từ các cá nhân tích cực
với bản tự khai và sơ yếu lý lịch, hàng chục con dấu đỏ lòe loẹt. “Thực tế”
đấy, cứ dựa vào đó mà viết. Đại loại là lúc đầu có khó khăn – hậu quả của xã
hội cũ – nhưng rồi có sự lãnh đạo của đảng ủy, mọi người nhớ đến “bác”, không
muốn cho “bác” buồn, thế là dựa vào các nghị quyết của trung ương, các văn
kiện đại hội đảng, lòng căm thù “Mỹ-Ngụy” mà vươn lên. Kể cả khi viết về các
ca mổ gan khô của bác sỹ Ty, đỡ những ca đẻ khó của bác sỹ Thìn ở bệnh viện
C, cũng vẫn theo cái công thức chung như thế. Cho nên việc nhà báo đi cơ sở
cũng giống như mấy diễn viên hôn gió khán giả, chỉ là tăng thêm phần thân mật
mà thôi.
Tổ trưởng thuyền viên Tâm, có biệt danh Châu Xương vì có hàm râu quai nón
loại chổi xể, từ hầm hành khách bấm đèn pin cho tôi xuống thang. Đứng sát
Tâm, tôi bảo anh cứ để tôi tự nhiên như một khách đi tàu.
Tối quá. Lối đi toàn chân người chìa ra. Tôi đi về mạn đuôi, xin lỗi được tìm
một chỗ ngồi. Giọng một bà cụ:
- Chú
ngồi đây. Còn rộng chán. Càng đông càng ấm chứ sao.
Tôi ngồi xuống cạnh bà cụ. Bàn tay bà cụ nắm vào tay tôi, lạnh, xương xẩu,
sần sùi, hơi run run. Tôi khẽ hỏi cho có lệ:
- Mẹ đi
đâu đấy?
- Tôi
đi gần đây thôi – Hưng-yên ấy mà. Thế chú đi đâu?
- Con
đi Thái-bình
Bà cụ thở dài:
- Nghe
nói bên đó mất mùa. Lại đói nữa thôi. Chẳng biết đến bao giờ mới được bữa ăn
no. Cũng tại thằng Mỹ cả thôi. Đến cụ Hồ mà cũng bữa cơm chỉ có vài quả cà xứ
Nghệ. Thật, nghĩ đến cụ mà chỉ muốn khóc.
Tôi miễn cưỡng “vâng” mà lòng ngao ngán tự hỏi: “ăn cơm với vài quả cà mà ngày càng béo múp đầu múp đuôi.
Sao dân chúng còn khờ quá vậy”. Chợt nghĩ mình cũng đang trong bộ máy
tuyên truyền xuyên tạc của ông ta, tôi thấy mình quả có tội với những người
dân chân thật này. Rồi trong tôi lại nổi lên “thằng bào chữa cá nhân” rằng
mình đi nhiều nhưng chỉ viết những thứ vô thưởng vô phạt. Cho dù vậy, tôi vẫn
tự véo đùi mình để tự trừng phạt. Bỗng tay tôi chạm phải một cái đùi nóng hôi
hổi qua lớp vải mỏng. Chẳng cần quay lại nhìn người ngồi bên, tôi cũng biết
đây là một cô gái. Tôi vội rụt tay lại. Và, lúc này thoang thoảng qua mũi tôi
một mùi là bưởi, bồ kếp có chút mùi lá sả. Tôi cúi xuống ngửi áo của mình.
Mùi nước đái con nít nhưng vẫn khai. Vợ chồng tôi vẫn phải lấy chiếc áo bông
này đắp cho đứa nhỏ, mà con bé hay đái dầm quá thế mà áo thì cứ để qua mùa
đông mới giặt được. Nhà có mỗi cái chăn bông đắp hai vợ chồng và đứa con lớn.
Tôi đi vắng thì ba mẹ con được nằm chung. Nghĩ đến mình hôi hám, tự nhiên ngượng
với con người sạch sẽ ngồi bên.
Có tiếng chuông lanh canh, tàu như dừng lại. Hành khách lao xao đứng lên gọi
nhau ý ới. Cửa bên hông tàu mở ra, gió lạnh thổi vào cùng với tiếng mời mua
quà bánh. Đây là bãi Tự-nhiên (thuộc Hưng-yên), tàu không vào bến trong mùa
nước xuống nên khách phải đi đò ra và vào bến. Các thuyền con của nhà hàng
vây quanh tàu như một cuộc họp chợ. Tất cả đều làm ăn, trả tiền, thì thào
trong bóng tối, không một ánh đèn hay lửa.
Bà cụ ngồi bên tôi lên bến này. Tôi dìu bà cụ dậy, nắm chặt tay bà cụ trong
tay, tôi cảm thấy một nỗi tê tái dâng lên. Bàn tay mẹ tôi bây giờ cũng gầy,
xương xẩu và sần sùi như vậy, ấy thế mà có thời là hoa khôi kia đấy. Sự khốn
cùng và thời gian đã tàn phá hết cả.
Cuộc mua bán, ăn uống, đưa hàng lên tàu, chuyển hàng xuống thuyền, những câu
thì thầm, những cái đập tay và tiếng cười cầu tài… phải gần nửa tiếng đồng hồ
sau mới xong. Con tàu lại rồ mát nhè nhẹ. Chỗ bà cụ lên bến ngồi có hai thanh
niên nồng nặc mùi rượu. Một anh chàng hơi thở như mùi lạc thối phả ngang mũi
tôi.
- Bác
ngồi xích vào chút nữa đi.
Tôi chưa kịp xích thì anh thanh niên thứ hai đã nói:
- “Tàu
là nhà, hành khách là chủ”, khẩu hiệu này dán từ ở phòng bán vé cho xuống đến
tàu, anh không thuộc hay sao mà cứ đòi ngồi thoải mái!!!
Cô gái cạnh tôi dịch một chút và khe khẽ với tôi:
- Anh
dịch vào đây cho các anh ấy ngồi. Mỗi người chịu đựng một chút vậy.
Tiếng nói này đúng là “dân Hà-nội” chính gốc. Nhẹ nhàng như tiếng gió, trong
như tiếng hạc. Giọng cô ta nghe sao sang trọng và dõng dạc lạ thường.
Anh chàng ngồi cách tôi một người lè nhè giọng rượu:
- Chà,
chà, có “phún” (tiếng lóng là phụ nữ) là vui rồi. Cô em giọng ngọt ngào như
thế chắc là hát hay lắm. Đề nghị phục vụ bà con một bài đi.
Cô gái ngồi im, chợt cái đùi hơi cựa cậy. Tôi cảm thấy sức nóng từ đùi con
gái trinh nguyên truyền qua tôi, tuy đã hai lần quần vải gai. Tiếng anh chàng
hôi mùi lạc thối ồm ồm:
- Hát
đi cô em. Thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang” mà nhát bỏ mẹ! Thế
thì đánh Mỹ sao nổi?
Tay bạn hùa theo:
- Các
anh là giặc lái đây (tức lái xe ô-tô). Mới từ khu bốn lửa đạn về thăm gia
đình. Hát đi rồi về quê anh chơi, anh chi hết tiền tàu xe đi xe về lại còn
quà cáp nữa, ừ đi!
Cả tàu im lặng, chỉ có tiếng máy rù rù và sóng nước ì oạp đánh vào mạn tàu.
Anh chàng hôi mùi lạc thối đập tay vào đùi tôi:
- Ông
anh làm ơn đổi chỗ cho đàn em đi. Xin “các” ông anh hai gói Điện-biên giấy
bạc hút cho vui. Được không?
Cầm tay anh ta, tôi đặt về đùi anh ta, nhưng cố tình bóp tay anh ta thật mạnh
– thị uy sức mạnh mà – :
- Tôi
cũng sắp tới bến rồi. Hai anh hát trước đi.
Hẳn là hiểu sự cảnh cáo “hòa bình” của tôi, anh ta cười cười:
- Ông
anh “tập tạ” hay sao mà khỏe thế. Bóp gẫy mẹ nó bàn tay câu cơm của đàn em
rồi. Ừ, hát thì hát.
Rồi quay sang bạn:
- Này
Thọ sùi, tao với mày đồng ca bài “Mười yêu” đi.
Và, hai thanh niên mới – sản phẩm của ông Hồ chí Minh – cùng hát, đúng ra là
gào lên:
“Một yêu anh có peugeot (1)
Hai yêu anh có Seiko (2) đàng hoàng
Ba yêu anh có bộ đồ sang
Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng thủ đô
Năm yêu không có bà bô (3)
Sáu yêu Văn-điển ông bô sắp về (4)
Bảy yêu lái xe là nghề
Tám yêu phe phẩy, lè phè, nhởn nhơ
Chín yêu bạc lắm, tiền dư
Mười yêu dù lớn, dù vừa che thân (5)
Với em, tiêu chuẩn phu quân
Rõ ràng cho xứng mười phân vẹn mười
Bà con ơi, xin chớ có cười!”
Tiếng hát vừa dứt, hai anh chàng tự vỗ tay tán thưởng trước. Một số khách đi
tàu cũng vỗ tay theo. Anh chàng “lạc thối” lớn tiếng:
- Ngồi
đây mới biết là còn sống về lễ ông bà, ông vải ngày Tết bà con ạ. Thuốc lá Điện-biên
bao bạc đây, xin mời bà con hút một điếu đoàn kết cho vui.
Cả tàu bỗng nhao lên gọi phần thuốc được mời. Anh chàng lễ phép mời tôi và cô
gái bên cạnh. Có tiếng Tâm “Châu Xương” sang sảng:
- Lệnh
phòng không, cấm lửa bà con ơi. Đề nghị triệt để chấp hành điều lệnh phòng
không nhân dân khi đi tàu.
Bạn anh “lạc thối”, có tên Thọ sùi, nổi giận:
- Đéo
cho hút thì thôi, bà con giữ làm kỷ niệm năm hết Tết đến vậy.
Tiếng Tâm nạt lại:
- Đề
nghị đồng chí ăn nói đàng hoàng, đừng văng tiếng Đức như thế.
- Nói
tiếng Cu-ba, Cu-mẹ được không?
Mấy người già giàn hòa. Tâm bỏ đi, còn hai anh chàng “giặc lái” vẫn ấm ức
văng tục một lúc nữa.
Tôi chợt nhớ đến tiếng “đồng chí”, giờ đây nó được dùng vào lúc người ta định
đối phó với nhau, định chụp cho nhau các kiểu mũ. Lại cũng một sản phẩm ngôn
từ nhãn hiệu Hồ chí Minh.
Cô gái khẽ nói với tôi:
- Anh
làm ơn cho em lách ra, sắp tới bến em phải lên rồi.
Tôi như hụt hẫng:
- Vậy
hả… chúc cô năm mới mọi điều may mắn tốt lành nhất.
- Em
cám ơn anh. Xin được kính chúc anh và gia đình sức khỏe, công tác tốt.
Cô gái cúi người nhặt chiếc túi xách dưới gầm ghế, mớ tóc lao xao và hương lá
bưởi, bồ kếp lại bay lên. Tôi khẽ hít đầy lồng ngực.
Tôi lên boong tàu. Nghe tiếng chèo thuyền lõm bõm mà chẳng thấy thuyền. Cái
lạnh ngấm nghía. Cái lạnh tái tê. Khi tàu chuyển động, tôi đi về phòng thuyền
trưởng. Mâm nhậu chỉ có mình ông giám đốc, tay còn cầm cái chân chó, bát nước
sáo trong mâm, ghếch đầu dưới bàn thờ ông Hồ chí Minh, đang ngáy như Trương
Phi.
Vừa kịp ngồi lên giường thì một thuyền viên mở cửa bê cho tôi tô sáo chó nóng
hôi hổi. Tôi húp một miếng mà chẳng cảm thấy mùi vị gì. Thoang thoảng bên mũi
tôi như vẫn còn mùi lá bưởi, mùi bồ kếp và lá sả. Tôi đưa điếu thuốc lá cho
anh thuyền viên. Anh ta đưa lên mũi hít hít và cười thú vị:
- Điện
biên giấy bạc đây. Tiêu chuẩn Vân-hồ (6) đấy. Em xin anh.
Tôi thấy mình như đang đi trong sương mù, không đầu, không đuôi, không bến,
không bờ: người đầy tớ vĩ đại nhất của nhân dân đang trên bàn thờ “Tổ
quốc”; người đầy tớ trung thành của nhân dân đang nằm ngáy o o, tay còn cầm
chiếc chân chó nấu sáo. Những người chủ của đất nước đang chen nhau dưới hầm
tàu hôi hám. Và tôi, người có lý lịch là thành phần “bóc lột” đang được giai
cấp công nhân phục dịch, vâng dạ.
Mùa xuân năm 1971
Bộ nông nghiệp tổ chức họp báo giới thiệu những đơn vị và cá nhân có thành
tích chăn nuôi lợn. Sau hội nghị, tôi được phó giám đốc kỹ thuật của “trại
lợn giống” ở tỉnh Thanh-hóa mời về thăm trại. Chúng tôi đi tàu hỏa đến ga
Phủ-lý rồi từ đó đi bằng xe đạp.
Phó giám đốc Tân tốt nghiệp khóa 1 trường trung cấp nông lâm. Quê anh là
Đồng-kỵ (Hà-bắc), nơi làm pháo nổi tiếng cả nước. Ai chưa được dự ngày “Hội
pháo” của Đồng-kỵ thì quả là một thiếu sót lớn. Dân Đồng-kỵ chịu chơi lắm và
rất hiếu khách.
Chiếc xe đạp của tôi được sản xuất tại quê hương của Lénine và Staline, nặng
như cái cùm, lại cao lêu nghêu. Xe của Tân làm tại Việt Nam, nhưng vật liệu
do hãng Mercier của Pháp để lại. Tôi cứ phải tưởng tượng rằng mình đang tập
thể thao mới đủ hào hứng đạp “cái cùm” này hơn một trăm ki-lômét đường đất
lầy lội. Tân đề nghị đèo giúp tôi cái ba-lô. Đi đường xa, chúng tôi đều có
kinh nghiệm là bỏ bớt được cái tăm cũng nên bỏ cho nó nhẹ. Cánh làm báo thuộc
thành phần “hạ phong” như bọn tôi đi vào tận Vĩnh-linh cũng đạp xe từ Hà-nội.
Làm gì có xe con đưa đón như Xuân Diệu hay Chế lan Viên, nằm giường trải nệm
trắng, tiêu chuẩn của chuyên gia Nga-xô, để viết bài ca ngợi “Quê hương Võ
đại tướng”! Hai nhạc công “trompette” này thuộc loại thượng thừa trong môn
phái Tố Hữu.
Khởi hành từ 5 giờ sáng, đến giờ gà lên chuồng buổi chiều, bọn tôi đã ngồi
trong văn phòng của trại, uống ly trà xanh với thìa đường Cu-ba màu cánh
gián. ở đây, ông Hồ chí Minh
cũng chễm chệ ngồi trên bàn thờ “Tổ quốc”; cũng có ba nén nhang và ngọn đèn
dầu lửa, chiếc băng tang viền quanh khung ảnh. Xung quanh tường là Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Tôn đức Thắng, Nguyễn lương Bằng, Hoàng quốc
Việt.
Mặt trời đã khuất, mà tiếng bìm bịp vẫn nỉ non vọng vào. Trại chỉ có ba đàn
ông, còn toàn đàn bà, con gái. Ba đàn ông là Tân, phó giám đốc; Cam lái xe và
Tôn làm tiếp liệu. Bí thư đảng là Cú, nghe nói là cốt cán của địa phương hồi
cải cách ruộng đất, có chồng là chánh văn phòng tỉnh ủy Thanh-hóa. Anh này là
dân tạch-tạch-sè – tiểu tư sản –, nhờ lấy vợ cốt cán nên được đề bạt vào chức
vụ quan trọng như vậy – Dọc đường đi, khi nghe phó giám đốc Tân nói cái tên
Cú, tôi đạp “cái cùm” đang muốn gãy giò mà phải phì cười:
- Này
Tân, tên là Cú mà người có cú không?
- Kinh
khủng anh ạ. Như con mụ phù thủy. Mụ ta cũng ém em dữ lắm nên đến nay em vẫn
ở ngoài đảng, mặc dù mọi sự điều hành do em.
- Thế
sao cậu được đề bạt phó giám đốc?
- Trại
này em đến từ lúc có ba con lợn nái và con lợn nọc. Một tay em gầy dựng nên,
đồng chí trưởng ty của tỉnh về thăm chịu em lắm, mà ông ấy là thường vụ tỉnh
ủy nên ông ấy ký lệnh đề bạt em. Còn vấn đề đảng thì ông ấy đành chịu vì phải
dựa vào cơ sở.
- À ra
thế.
Dụ dự một hồi, Tân hỏi:
- Anh
chắc… đảng thâm niên lắm nhỉ?
Tôi phì cười:
- Bạch
vệ như cậu thôi.
- Em
tưởng phóng viên báo các anh là đảng viên hết.
- Không
là đảng viên hết nhưng tất cả đều do đảng trả lương và sử dụng, như cậu vậy.
Tôi thì mệt, Còn Tân có vẻ suy nghĩ lung lắm. Từ lúc ấy cả hai chỉ lo mải mê
đạp cho chóng đến trại còn được nghỉ ngơi.
Đến bữa ăn tối, tôi mới được gặp bí thư đảng Cú và giám đốc Tơ. Trại này đã
quen tiếp khách thập phương đến tham quan nên ra vẻ lắm. Bí thư Cú qua nghi
lễ giới thiệu của Tân dùng cả hai tay lắc mạnh tay tôi, cười nhe bộ lợi màu
bùn than và hàm răng nhuôm nhuôm:
- Chào
đồng chí nhà báo. Thay mặt lãnh đạo đảng, chuyên môn, công đoàn và thanh niên
trại lợn của tỉnh Thanh-hóa, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự có mặt của đồng
chí. Đây là sự khích lệ to lớn cho chúng tôi phấn đấu hoàn thành vượt mức kế
hoạch cả năm. Chúc đồng chí sức khỏe, lăn mình vào thực tế của trại để giới
thiệu kinh nghiệm của trại chúng tôi cho cả nước cùng nhau thi đua “chắc tay
cày tay súng” (7) vì công ơn và sự nghiệp của Hồ chủ tịch vô vàn yêu quý và
vĩ đại.
Dứt lời, bí thư Cú rút hai tay lại và theo thói quen vỗ vào nhau đôm đốp như
trước cuộc mít-tinh vậy. Giám đốc Tơ vỗ theo, rồi đến Tân và tôi cũng phải vỗ
tay đáp lễ.
Bốn người vào tiệc. Nếu bí thư Cú vừa béo vừa lùn bao nhiêu, hai con mắt lươn
tí hý, cái mồm trư bát giới thì giám đốc Tơ lại cao và gầy bấy nhiêu, hai con
mắt ốc nhồi và cái mồm rộng ngoác. Còn Tân khá điển trai với nước da mánh
mật, hai con mắt sáng, thông minh, đầu cắt theo kiểu Tố Hữu – lòa xòa trước
trán. Bữa cơm đầy vẻ khách khí. Bí thư Cú ra công tiếp thức ăn cho tôi, còn
giám đốc Tơ im lặng, thỉnh thoảng chạy ra chạy vào – theo lệnh bí thư Cú –
lúc thêm trái ớt, đĩa lòng gà xào dứa, lúc bát canh gà nấu bí đao. Tân và tôi
mệt và đói nên đánh chén rất thực lòng. Đã lâu lắm tôi mới cảm thấy bữa cơm
ngon như thế, y như mẹ tôi hoặc chị tôi nấu ở nhà những ngày có giỗ.
Sau bữa ăn, bí thư Cú muốn tôi về phòng khách của trại ngủ, nhưng Tân rủ tôi
về chỗ ở của Tân, lấy cớ là trao đổi với tôi một số vấn đề chuyên môn.
Căn phòng ngủ của Tân liền ngay phòng làm việc. Văn phòng trại sơ tán theo
lệnh phòng không của tỉnh. Giường ngủ cũng như chỗ bàn làm việc có hào ra
khỏi nhà vào ngay hầm trú ẩn chữ A. Khá an toàn về máy bay nhưng hào và hầm
lại có sức lôi cuốn rắn các loại.
Tôi cứ tưởng ngủ ngay được, nhưng khi Tân ghé tai tôi nói:
- Thức
ăn chiều nay anh có thấy cái vị Hà-nội không?
Tôi chợt nhận ra điều đó và gật đầu. Tân thì thào:
- Một
đồng hương của anh đang ở đây và nấu cho anh ăn đấy. Em định kéo cô ấy ra cho
anh cám ơn “chị nuôi” (8) nhưng cô ấy nhất định không chịu ra, chỉ nhìn qua
khe vách. Mọi khách khứa khác cô ấy không bao giờ rụt rè như thế đâu. Cùng
người Hà-nội với nhau, hay là cô ấy biết anh?
Tôi bật cười:
- Làm
gì có chuyện đó. Cậu này nhiều chuyện thật.
Tâm không nói gì, yên lặng hít vài hơi thuốc lá đen, mùi thật nặng của thuốc
Cẩm-thùy (một huyện của Thanh-hóa). Đột ngột Tân kéo ghế lại sát giường tôi:
- Em có
chuyện này muốn kể với anh, nhưng anh phải thề không cho ai biết kia đấy.
- Nếu
quá bí mật thì thôi đừng kể. Mình hay trống miệng lắm. Giấu cái gì trong bụng
là y như người muốn đẻ vậy.
Vẻ
quan trọng, Tân cầu khẩn:
- Anh
là nhà báo, có học, đọc nhiều, tâm lý, lại là người Hà-nội, anh nghe em kể
đi, chuyện của riêng em chứ đâu có là bí mật quốc gia. Em muốn được anh chỉ
bảo cho. Các anh ở báo Nhân dân, Cứu quốc, Tiền phong… hôm họp ở bộ nông
nghiệp nói với em rằng anh là “chính ủy” của họ. Hễ ai có gì buồn hay khó
khăn, nghe anh phân tích là yêu đời lại ngay. Anh giúp em đi.
Nhìn đôi mắt van lơn của Tân, tôi phì cười:
- Thì
ra vậy mà cậu nằn nì bằng được Ban thi đua của Bộ để mời tôi về đây.
Tân cười như xin lỗi:
- Công
tư lưỡng lợi anh ạ. Nhiều lúc em muốn điên cái đầu lên, anh biết không? Có
lúc em nghĩ đến cả giết người hay tự tử nữa kia đấy.
- Chà,
chà. Lâm ly, bi đát nhỉ. Cứ như là Othenlo lên cơn ghen ấy. Có cà phê không?
- Có
chứ. Arabica của nông trường Đồng-giao đấy. Thằng bạn cùng khóa với em làm kỹ
thuật ở đó. Anh muốn cả tạ cũng được. Xã hội nào chì cũng “thợ may ăn bớt
vải, thợ mã ăn bớt hồ”.
Tôi cười:
- Các
cụ mình giỏi thật. Nói câu nào trúng phóc câu ấy. Có lẽ vì thế mà các cụ bị
“cách mạng”.
Trong khi Tân pha cà-phê, tôi hỏi:
- Nói
thật nhé, mới liếc qua cả tổ chức lẫn lều trại, mình thấy trại này của cậu
hoang sơ quá thế mà sao lại được chọn là điển hình hả?
Tân thích trí cười sằng sặc:
- Anh
tinh thật. Các anh bạn anh bảo anh giả ngây giả ngọng vậy thôi chứ con ruồi
bay qua cũng biết đực cái.
- Nghe
cánh nhà báo thì bán thóc giống và… lợn giống đi mà ăn. Có đàn bò đi qua thì
mình biết con nào đực, con nào cái. Thôi, thành thật khai đi, không phải để
viết báo đâu, mình tò mò thôi, có thế mới mách nước chuyện riêng của cậu.
- Vâng.
Bọn em một mặt làm báo cáo cho kêu, một mặt “cung cấp lợn giống” theo giá
“lợn chết” cho các vị có quyền từ tỉnh đến bộ.
- Giá
“lợn chết” là thế nào?
- Thí
dụ con lợn giống 5 kí-lô bán cung cấp là 15 đồng. Nhưng bán cho vợ con các cụ
ấy – về nuôi hoặc bán lại lấy lời – thì hạ từ 5 kí-lô thành 3 kí-lô và coi
như vận chuyển bị chết hoặc chuồng chật mà chết, thế là còn bán có năm hào
một con thôi. Như vậy tránh tiếng tham ô, hối lộ.
- Thế
còn các vị ở bộ họ cũng nuôi à?
- Số
nuôi lợn cũng có, nhưng ít lắm. Họ bán lại cho mấy người Trung quốc ở phố
Hàng Buồm, nên mới có lợn quay “bán chui” chứ! Những 3 đồng rưỡi một kí-lô
móc hàm.
Tôi ngồi im, nhìn những giọt cà-phê sánh lại chảy giọt từ cái phin nhôm xuống
chiếc ly thủy tinh. Một nỗi căm phẫn bùng lên. Tôi muốn chửi thật to cái lũ
nhà báo, giáo sư, trí thức nước ngoài đã ca ngợi, vẽ vời cho Hồ chí Minh và
đảng của hắn. Họ chẳng biết một tý gì cái “thực” của miền Bắc Việt Nam trong
tay Hồ chí Minh. Tôi nhớ đến một anh bạn thân, từng được cử đi làm chuyên gia
ở châu Phi trở về, đã tâm sự “chế độ Hồ chí Minh sẽ đổ vì nền kinh tế không
tưởng của nó”. Câu “an ủi” đó làm tôi dịu lại. Chợt nhớ đến câu chuyện lạ kỳ
nhất thế giới về kinh tế, đã xảy ra ở miền Bắc Việt Nam, vừa mới năm ngoái
thôi. Đó là nông trường trà ở Sa-pa (Hoàng-liên-sơn), với hơn hai trăm cán bộ,
công nhân viên, với hàng trăm mẫu tây diện tích, đã được nhận lẳng hoa của
chú tịch Tôn đức Thắng về thành tích sản xuất. Thực tế, cả năm họ chỉ làm ra
có “năm (5) kí-lô trà” và đã dùng để biếu: Tôn đức Thắng, Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm văn Đồng và Hoàng quốc Việt, mỗi người vừa đúng “một
(1) kí-lô”. Chuyên nay phải ỉm đi. Thật là như đùa.
Cà-phê thơm thật là thơm nhưng uống với đường màu cánh gián Cu-ba thì thật là
phí, nó chua ngoét. Tôi nhớ cà-phê bà Sính ở đường Cột-cờ và cà-phê Hói ở đầu
Bà Triệu (Hà-nội).
Tôi nhìn Tân, động viên:
- Nào,
kể chuyện riêng của cậu đi.
Tân e hèm hai ba lần, cứ như con cắc kè trước lúc tắc lưỡi, mới nói được:
- Em kể
chẳng đầu chẳng đuôi lại tóm tắt cho anh còn đi ngủ, anh bỏ lỗi cho em nhé.
Tôi cười:
- Không
sao. Cứ nói theo ý nghĩ của cậu. Nói đến sáng cũng được.
Muỗi nhiều quá, tôi mắc màn, và hai chúng tôi ngồi trong màn nói chuyện.
Tân bắt đầu:
- Cái
cô nấu cơm cho anh ăn chiều nay tên là Mai. Lưu Nghiêm Hoàng Mai. Cô ấy là
người Hà-nội đấy. Xưa kia gia đình có cửa hàng đại lý bán và sửa chữa radio ở
gần Chợ Mơ. Năm 1960 bị qui là tư sản mại bản, bị tịch thu nhà cửa. Ban cải
tạo cho hai điều kiện, hoặc ông bố cô ấy phải đi cải tạo tập trung hoặc cả
gia đình phải đi kinh tế mới ở miền núi. Và gia đình cô Mai đã chọn điều kiện
hai: Cả nhà vào lập nghiệp ở huyện Thạch-thành (Thanh-hóa) này. Cả cơ nghiệp
chỉ có ít áo quần, chăn màn, nồi niêu với hai trăm đồng vốn sau khi đổi tiền.
Số tiền dư thừa bị ngân hàng quản lý không được phép chi tiêu, và sau khi trừ
nợ thuế – tính từ 1945 – thì chẳng những không còn đồng nào ở ngân hàng mà
còn nợ nhà nước hàng ngàn đồng tiền thuế. May làm sao, gia đình sau khi về
Thạch-thành đem theo được một chục trứng gà Rhodes Island và một chục trứng
gà Sussex. Cụ Phác, bố cô Mai là một người đa tài và cần cù. Ông tự làm lấy
lều để ở rồi khai hoang, chăn nuôi. Cô Mai lúc ấy mới lên mười tuổi đầu cũng
phải cuốc đất với bố. Cả cô chị, hơn cô Mai hai tuổi, cũng thế; cũng tên là
Mai nhưng là Bạch Mai. Còn bà mẹ cô Mai khi đó đang có mang đứa út. Bà bị xẩy
thai vì buồn và vất vả, rồi ốm quặt quẹo luôn luôn. Và, cứ trông hai đứa em
trai, một lên bốn, một lên ba cũng đủ mệt rồi. Cô Bạch Mai đến năm 1964, theo
người ta lên rừng cắt lá bán dịp Tết bị hổ vồ chết. Cụ Phác thì lao lực, lại
bị sốt rét ác tính nên chết từ năm 1963. Trước khi chết cụ chỉ căn dặn phải
cố gắng cải tạo để được thay đổi thành phần và hai cô chị phải thề sẽ hy sinh
cho hai đứa em trai, sau khi được thoát khỏi thành phần tư sản mại bản, thì
được ăn học đến nơi đến chốn. Năm sau nữa, cô Bạch Mai bị hổ vồ chết, thành
ra cả gia đình bốn miệng ăn chỉ nhờ vào cô Hoàng Mai là lao động chính mới
tròn 15 tuổi. Thành phần như vậy, lại neo đơn về lao động nên gia đình cô Mai
không được vào hợp tác xã nông nghiệp địa phương, vẫn làm ăn cá thể và ở tận
rẻo đất xa làng mạc. Cũng may gây được hai loại gà giống Rhodes Island và
Sussex do mẹ và hai em trai nhỏ chăm sóc nên đỡ phần nào. Cô Mai tuy học dở
dang cấp hai phổ thông, nhưng được cụ Phác kèm cặp thêm, và với địa phương là
loại khá về văn hóa nên cô ấy tích cực tham gia dạy học ban đêm cho người
lớn, phải đi đêm hôm hàng cây số đường rừng để vào làng dạy học. Trời phù hộ
hay sao mà cô ấy chẳng bệnh tật đau yếu gì, thật là khỏe như lực điền, gánh
gần 60 kí lô thóc đi đường xa cứ phăm phăm. Đảng ủy và ủy ban xã dần dần hay
họp hành chè chén cả khi đón cấp trên cũng như khi hiếu hỷ và mẹ con cô Mai
được gọi làm đầu bếp vì là người Hà-nội. Thế rồi lãnh đạo huyện về đây ăn
ngon miệng nên tuyển cô ấy về cho vào làm hợp đồng của trại lợn giống này,
khi ấy còn do huyện quản lý. Đây là tổ nặng nhọc nhất vì phải nấu và cả kiếm
thức ăn cho cả đàn lợn hàng trăm con, chưa kể còn phải nấu nướng cỗ bàn mỗi
khi đảng ủy hoặc ủy ban huyện có khách, đã thế lương lại thấp hơn hồi lao
động cá thể. Nhưng cô Mai chấp nhận, hy vọng nếu vào được biên chế tức là
thành phần công nhân thì có thể thay đổi thành phần giai cấp xã hội, nhờ đó
hai em trai khỏi bị xếp là công dân loại 13, là loại lý lịch đen. Em và cô ấy
rất quen nhau ở đây. Tuy bận đầu tắt mặt tối, nhưng cô ấy rất hiếu học. Em đã
kèm cho cô ấy học và đã đậu hết phổ thông cấp hai của chương trình bổ túc văn
hóa. Và, cũng do sự động viên của cô ấy mà em học thi xong cấp 3 phổ thông,
học hàm thụ đại học nông lâm. Em yêu cô ấy thực lòng và em thấy cô ấy cũng có
nhiều cảm tình với em, tuy không có gì biểu lộ rõ ràng. Cô ấy kín đáo, hầu
như chẳng thấy đùa vui bao giờ. Em báo cáo với tổ chức việc tìm hiểu thì bị
mụ Cú, lúc ấy vừa là bí thư chi bộ đảng, vừa là trại trưởng ngăn cản. Mụ ta
nêu lý do là tất cả thanh niên trong thời chiến đã làm đơn “3 khoan” (tức là
chưa yêu thì khoan yêu; yêu rồi thì khoan cưới, cưới rồi thì khoan sinh con)
thì phải chấp hành, không những em là cán bộ, là cảm tình đảng đã đành, mà
ngay cô Mai cũng vậy. Mụ còn bảo cho dù không có chính sách “3 khoan” của
đảng thì đường lối giai cấp cũng không cho phép mụ ấy để em lấy cô Mai, vì cô
ấy là thành phần xã hội xấu, còn đang phải cải tạo trong lao động. Em nói
rằng cô ấy đã lao động tư 12 tuổi đến nay, vả chăng cô ấy còn là “công nhân”
hợp đồng của trại. Mụ đập bàn quát: “Công nhân gì nó, cho dù có lao động đến
hết đời nó đến đời con nó, nếu như có đứa đàn ông nào ngu xuẩn đâm đầu vào
lấy nó làm vợ.”
Nghe đến đó, tôi không nén được:
- Mụ ấy
nói vậy sao?
Tân run giọng vì phẩn uất:
- Em
thề là nhớ không sai một chữ. Mụ còn hăm dọa là nếu em còn nuôi ý nghĩ lấy cô
Mai làm vợ thì mụ sẽ đề nghị tổ chức cho em chuyển công tác đi nơi khác hoặc
sẽ cho cô Mai vào thanh niên xung phong đi đắp đường ở Trường-sơn.
Xa xa, chợt có tiếng cú vọng vào. Tôi tưởng như hồn của mụ Cú, bí thư đảng,
đêm nhập vào thân chim để kêu tiếng kêu ma quái của mụ. Cũng có thể mụ đang
kêu gọi hồn ông Hồ chí Minh về soi sáng mụ hơn nữa về đường lối đấu tranh
giai cấp.
Tân ngừng một lúc rồi trầm giọng:
- Em
không sợ cho em vì dù sao bố em cũng là thương binh chống Pháp. Em lo cho số
phận cô Mai. Mụ Cú sẽ trút mọi sự tàn nhẫn lên đầu cô Mai, mà như thế có
nghĩa là cả lên mẹ và hai em nhỏ của cô ấy. Em đành nuốt hận và còn phải theo
lệnh của mụ ta viết bản tự kiểm thảo với lời hứa trên giấy trắng mực đen là
không bao giờ được có quan hệ “luyến ái vô tổ chức” với cô Mai.
Tôi cắt ngang:
- Cô
Mai có biết chuyện này không?
Tân do dự:
- Cũng
có thể. Như em đã nói, cô ấy là loại sống nội tâm và vị tha. Cô ấy rất ít nói
lúc nào cũng khép kín mình. Nhưng vẫn giữ quan hệ bình thường với em, tuy có
lúc em cảm thấy như cô ấy muốn tránh mặt.
- Thí
dụ?
- Chẳng
hạn cô ấy mượn các sách giáo khoa cấp ba của em để tự học mà không chịu cho
em kèm học như trước. Có một điều…
- Một
điều làm sao?
- Em
thấy mụ Cú căm thù lắm.
- Quan
điểm giai cấp cực đoan chăng?
- Không
phải. Mụ Cú thì biết gì về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Mụ ấy là người dốt
nhất thế giới, đó là con vẹt anh ạ. Chính chồng mụ, trước khi lấy mụ, là
thành phần tiểu tư sản: một giáo viên chuyển sang làm công tác thông tin của
huyện. Mụ căm thù cô Mai vì đố kỵ nhỏ nhen, vì cô Mai trẻ, đẹp, giỏi và nết
na hơn mụ. Đây là cốt lõi của vấn đề. Anh không biết chứ, mụ ta là một dâm
phụ, đại dâm phụ.
Tôi phì cười:
- Mụ ấy
phải lòng cậu rồi chứ gì?
Tân bật cười theo:
- Mụ
không thích mẫu người như em mà thích thằng Cam lái xe và thằng Tôn làm tiếp
liệu.
Hai nhân vật đó chợt hiện lên trước mắt tôi. Cam to cao, da mai mái, tóc rễ
tre, có cặp mội dày như hai múi bưởi gắn vào mồm, lúc nào cũng ươn ướt, hao
hao giống môi Phạm văn Đồng. Còn Tôn, nếu đeo cặp kính trắng và cái đầu lúc
lắc, tóc dài chút nữa và rũ rượi ra thì đúng là Xuân Diệu. Tôi nhìn Tân hỏi
lại:
- Có
thật thế không?
Tân tròn mắt như ngạc nhiên:
- Chính
em thấy tận mắt bọn chúng bay bạ với nhau tay ba! Lúc đầu em không tin là sự
thật mà tưởng như nằm mơ. Phải đến lúc bọn chúng đập nhau đôm đốp và cười
cùng cực em mới tin là sự thật.
- Ngoài
ra cậu liệu có ai biết chuyện này không?
- Em
không biết. Ngay như em, biết cũng chẳng dám nói. Anh là người thứ hai được
em kể lại. Người thứ nhất là bố em. Em kể cho ông nghe, ông vơ ống điếu đập
vào đầu em và nói: “Mày mê một tư sản mại bản mà vu cáo bí thư đảng. Tôi mày
đáng bắn vỡ đầu, đáng thắt cổ trôi sông. Mày mà không đoạn tuyệt với những ý
nghĩ phản động ấy thì tao sẽ đích tay bắn chết mày để khỏi mang tội với đảng
và Hồ chủ tịch. Đảng bao giờ cũng đúng và đảng viên là tinh hoa vủa giai cấp
công nhân. Mày nhớ cho đến chết, nghe chưa!”
Rồi Tân buồn rầu:
- Và,
bố em đã chết vì đứng tim khi nghe bộ trưởng phủ thủ tướng Nguyễn Khang, ủy
viên trung ương đảng, làm hại đời con gái của bạn.
Càng về khuya, trời càng lạnh. Con cú tai quái vẫn rúc liên hồi đâu đó. Tôi
phủ cái chăn chiên của nhà máy dệt Nam-định lên người mà vẫn run. Tân hỏi
tôi:
- Có
mứt gừng ăn Tết đấy, anh ăn cho nóng người nhé.
Tôi gật đầu. Tân lục đục một lúc rồi cầm cả lọ mứt vào. Tôi nhấm một miếng,
vị cay, ngọt, âm ấm. Miếng mứt khô và cứng vừa đủ. Tôi hỏi:
- Mứt
thương nghiệp tỉnh đây hay ở quê cậu mà khá thế. Y như mứt Hà-nội trước 1954.
Tân nhấm nháp, gật gù có vẻ tự hào:
- Bà mẹ
cô Mai nấu lấy đấy. Thì đã bảo dân Hà-nội chính hiệu mà anh. Đủ cả “công,
dung, ngôn, hạnh”. Như anh ở tuổi đó chắc chị ấy cũng khéo, chứ em xem bây
giờ con gái cỡ bọn em toàn “3 đoảng” chứ chẳng “3 đảm” chút nào (tức là đảm
đang việc nhà; đảm đang việc nước; đảm đang việc xã hội). Kén vợ khó lắm anh
ạ.
- Cũng
chẳng trách họ được, vì những thứ “công, dung, ngôn, hạnh” bị coi là tính
cách của giai cấp bóc lột, của khuôn mẫu cho người phụ nữ trong xã hội coi
“đàn bà là đồ chơi, tôi mọi” nên bị đả phá.
Tân cười hiền lành:
- Thú
thật với anh, em nghĩ “công, dung, ngôn, hạnh” của người phụ nữ chính là vật
liệu dựng nên lầu đài hạnh phúc gia đình đấy ạ. Đàn bà kiểu mụ Cú hay mụ Tơ
thì có chết hết đàn bà em cũng không màng tới họ, thà lấy con bò cái làm vợ
còn hơn.
Tôi bật cười:
- May
mà ông cụ nhà cậu chết rồi, chứ còn sống chắc ông ấy thắt cổ cậu đem trôi
sông rồi đấy.
- Tội
nghiệp bố em, ông ấy cuồng tín đến mù lòa.
Tôi gạt đi:
- Thôi,
kể tiếp chuyện cô Mai đi. Đừng nói đến người đã khuất nữa mà mang tội.
Tân e hèm:
- Chắc
anh cũng mệt vì đạp chiếc xe Liên-xô cả ngày rồi. Ngủ đi cho khỏe. Mai em đưa
anh đến chỗ cô Mai để thấy “người thật việc thật”, anh sẽ sửng sốt, không
khéo chết đứng như Từ Hải của cụ Nguyễn Du.
Tôi chập chờn đi vào giấc ngủ với một linh cảm rằng cái cô Hoàng Mai này có
liên quan gì đó đến cô gái mà tôi gặp trên chuyến tàu thủy đi Thái-bình vào
dịp Tết mấy năm về trước. Tôi mơ thấy một gương mặt buồn, nặng nề chịu đựng;
thấy tiếng gà cục tác, thấy hoa bưởi rơi trắng sân, mùi thơm ngan ngát; mùi
sắn nướng thơm làm sao, bùi bùi, nóng nóng và một vị ngọt thoang thoảng trên
đầu lưỡi. Tất cả đều hư ảo, không rõ ràng, chẳng hiện hẳn ra mà cũng chẳng
chịu biến đi. Thế rồi tôi tỉnh dậy. Nhiều năm bị cải tạo đã thành phản xạ có
định hình. Tôi vừa mở mắt thì cái loa công cộng của trại lợn giống cũng ồm ồm
bài nhạc tập thể dục buổi sáng. Trời lạnh buốt nhưng tôi cũng nhảy ra khỏi
giường làm vài động tác thể dục. Tân vừa đi đâu về, nhấm nháy bảo tôi mặc
quần áo đi ngay.
Qua một nương sắn, trước mắt tôi là căn nhà lá xinh xắn. Chưa tới gần đã nghe
một giọng đàn ông khàn khàn chửi:
- Tiên
sư cha thằng Hồ chí Minh, mày đánh lừa tao! Tiên sư cha thằng bác sỹ cưa hết
cả chân, tay của tao! Tao sống thì ngày ngày chửi mày, tao chết thì kiện mày
tận ba tòa Diêm-vương.
Tôi chưa hết ngạc nhiên tột độ thì Tân khẽ nói:
- Chồng
cô Mai đấy. Ngày nào cũng chửi như thế đủ cả ba buổi: sáng, chiều và tối.
Đi gần tới cửa, Tân lên tiếng:
- Anh
Thìn ơi, có khách ở Hà-nội vào chơi này. Chị Mai có nhà không?
Một giọng tỉnh táo:
- Tân
đấy hả? Mày về hồi nào, vào đây, mời cả khách vào đây. Cô Mai ra chuồng rồi,
nghe nói đêm qua có sương muối, lợn bị chết đấy.
Tôi theo Tân vào nhà. Trên chiếc giường đôi, nằm sát phía ngoài, một người
đàn ông có bộ mặt xanh xao nhưng ưa nhìn đang nằm đắp chăn đến tận vai. Dưới
gậm giường một cái chậu sành than hồng tỏa ấm cả căn phòng. Mùi vỏ bưởi cháy
thơm bốc lên. Tân giới thiệu:
- Đây
là anh Thìn. Thương binh loại…
- Loại…
“3 không”: không tay, không chân, không trợ cấp thương tật.
- Còn
đây là nhà báo đi thực tế về trại ta, lại thăm anh chị…
Mới nghe đến thế, anh thương binh Thìn nhăn mặt mũi như vừa ngửi phải cái gì
hôi thối lắm:
- Nhà
báo hả? Tiên sư cái thằng Tân này, mày dẫn nó đến đây làm gì? Để “thực tế”
cái què, cụt tàn phế của tao hả? Để mô tả cái con c… tao hả? Để phịa chuyện
đánh lừa các thanh niên chết hoặc tật nguyền cho chúng nó phè phỡn hả!!!
Cái chăn động đậy, một cánh tay khẳng khiu thò ra khỏi chăn, chỉ ra phía cửa:
- Cút,
cút ngay cái thằng làm báo thối tha kia. Thằng bồi bút. Thằng tô hồng chế độ!
Thằng bôi đen sự thật! Thằng con hoang của chế độ Hồ chí Minh!
Tôi đứng im chịu trận mắng như trút nước, không tự ái mà chỉ xót xa hổ thẹn.
Tân ngồi xuống mép giường, giọng vỗ về:
- Khoan
nào anh Thìn, nghe em nói đi. Anh ấy không phải loại làm báo cơ hội bẩn thỉu
như anh vẫn kể cho em nghe đâu. Anh ấy cũng như người anh tinh thần của em ấy
mà. Cho nên em mới dám đưa lại thăm anh, nói chuyện cho anh đỡ buồn.
Nét mặt nhợt nhạt, hai cánh mũi phập phồng vì mệt, Thìn nằm im, một lúc sau,
giọng bình tĩnh hơn:
- Anh
ngồi đi.
Ghế là một khúc gỗ cong queo với cái nệm là lá ngô bện đan thành các hình kỷ
hà học. Tôi ngồi xuống liếc nhìn căn phòng. Ngăn nắp và toát lên một vẻ diêm
dúa trong tay một người con gái kỹ tính. Một ống tre làm lọ hoa, chồi lên một
giỏ phong lan “hài vệ nữ”; mấy gốc sắn đã chặt củ làm thành hình các con thú
được quang dầu bóng nhoáng để trên chiếc tủ con; ba chậu hoa “pensée” làm
bằng mo cau ở kế cửa sổ; có rèm làm bằng màu giấy lấy từ họa báo của Trung
cộng, se lại như chiếc điếu thuốc lá nhỏ và luồn giây dù để nối lại nhau.
Nhìn vào đâu cũng có dấu tích bàn tay khéo léo và con mắt thích cái đẹp của
con gái Hà-nội.
Thấy tôi quan sát tỉ mỉ, anh Thìn lên tiếng:
- Tác
phẩm của cô Mai đấy, anh thấy thế nào?
Tôi mỉm cười:
- Khéo
lắm, chắc cũng có ý kiến đóng góp của anh chứ?
Thìn cười buồn:
- Tôi
ấy à. Tôi là thằng khốn nạn, làm được cái quái gì khi cụt cả hai chân và một
tay. Còn lại một tay thì là tay trái. Còn đầu óc, ngu như là bò đực, anh biết
không? Tôi chỉ nằm đây cho cô ấy hầu, cho cô ấy nuôi như nuôi… lợn con, để
rồi lúc đầu óc đau buốt thì chửi. Tôi chửi thằng Hồ chí Minh lường gạt nhân
dân, cả Việt Nam, cả thế giới. Tôi chửi nhân dân Việt Nam ngu dốt, thích làm
nô lệ, hết cho Tây lại cho Nga, cho Tàu, cho Hồ chí Minh. Tôi chửi tôi ngu đã
nghe lời Hồ chí Minh nên mới ra nông nỗi này. Tôi chửi bố cô Mai ngu, không
di cư vào Nam mà ở lại để bản thân chết như con chó ghẻ, còn làm khổ vợ, khổ
con. Tôi chửi cô Mai ngu, đã nghe lời Hồ chí Minh và con Cú để cõng tôi từ
trại thương binh về làm chồng, lại còn làm đơn tình nguyện hiến hết mọi trợ
cấp thương binh của tôi để ủng hộ miền Nam đánh Mỹ-Ngụy. Tôi chửi mẹ cô Mai
đã đẻ ra hai thằn em trai của cô ấy để bây giờ cô ấy hy sinh cho chúng nó
được đổi thành phần giai cấp xã hội bằng cách lấy tôi, lợi dụng cái tàn tật
của tôi, giả vờ làm vợ của tôi, giả vờ tiến bộ. Tôi ngu nhưng tôi còn hơn bọn
các anh vì tôi dám chửi thằng Hồ chí Minh. Anh có dám nghe tôi chửi không?
Này thì tổ sư cha thằng Hồ chí Minh, thằng Lê Duẩn, thằng Trường Chinh, thằng
đại sứ Nga, thằng đại sứ Trung cộng!!!
Nghe Thìn nói, tôi thấy lòng sôi sục phẫn nộ:
- Anh
Thìn, nghe tôi nói này. Anh nói đúng, anh là thằng khốn nạn, là đồ ngu như
bò. Vì thế mới có cái hiện tại của anh. Tất nhiên không hoàn toàn ở anh, còn
có nguyên nhân khác nữa. Đừng nằm đó mà làm anh hùng với cô Mai, ân nhân của
anh. Anh càng chừi, người ta càng cho anh là thằng điên, chẳng ai thèm nghe
mà cũng chẳng ai thèm để ý đến cái thứ như anh đâu. Anh làm khổ anh chưa đủ
hay sao mà còn làm khổ, sỉ nhục người con gái yếu đuối như cô Mai.
Tân đứng dậy can:
- Đừng
anh, đừng…
Giọng Thìn tỉnh lại:
- Để
yên anh ấy chửi tao, Tân. Anh ấy nói nghe được đấy. Anh ấy bênh vực cô Mai
tuy chưa quen biết, được đấy. Tao tin anh ấy.
Rồi nhìn tôi, Thìn tiếp:
- Từ
ngày tôi về đây chưa đứa nào dám chửi tôi, cũng như chưa đứa nào dám bênh cô
Mai trước mặt tôi. Anh chưa mất chất người như bọn chúng nó. Tôi nằm nhiều
năm mới có cái cách nhìn người như thế đấy.
Tự nhiên tôi thấy hụt hẫng, thấy hối hận trước thái độ của Thìn. Tôi lại sát
giường, cầm bàn tay xương xẩu, giá lạnh của Thìn. Chúng tôi nhìn nhau và tự
nhiên có cái đồng cảm như người cùng trong cuộc. Đôi mắt Thìn tối sầm, những
giọt nước mắt ràn rụa. Thìn khóc thút thít như con nít. Tôi vốn khó chịu khi
nghe ai khóc, có lẽ vì cứ hay bị nghe vợ khóc khi hết tiền mua gạo, hết tiền
mua các thứ tem phiếu tiêu chuẩn làm quá hạn phải hủy đi hoặc nghe con bé lớn
cứ i ỉ khóc lúc nửa đêm, lúc mà bụng đã ngót, trời thì nóng hầm hập, muỗi như
trấu mà vẫn phải ngồi dịch sách kiếm thêm bằng tay trái vẫn chẳng đủ tiêu. Nó
đòi quạt cho mát vì rôm xẩy đầy người. Thế mà giờ đây nhìn nước mắt của một
người đàn ông khóc vì bất lực, tôi thấy xúc động, thấy muốn gào thật to cho
hả. Khi cơn xúc động đã qua, cả ba chúng tôi kẻ nằm, người ngồi đều yên lặng
như tượng gỗ. Tôi chợt thấy một mùi khăn khẳn, hình như từ chỗ nằm của Thìn.
Chắc là máu mủ từ những chỗ loét nơi thương tật. Thì ra vậy nên cô Mai mới
bày cách đốt cùi vỏ bưởi cho át mùi hôi đó. Tân là người phá bầu không khí
đầu tiên:
- Chị
Mai làm mứt Tết ngon lắm, anh ăn thử mấy thứ mứt xem nhé, phải không anh
Thìn?
Thìn ừ hử, chỉ tay ra chiếc tủ con:
- Mày
giúp tao lấy mứt và có trà tươi nóng đấy mời khách hộ tao.
Mứt chanh, mứt đu đủ, mứt na, mứt gừng, mứt khoai, mứt đậu nành, tôi nếm mỗi
thứ một miếng, không ngờ ở xó rừng này lại có đủ thứ mứt ngon như vậy. Ly chè
xanh khói lên mờ mờ, uống chiêu mứt sao mà hợp khẩu thế. Đúng ra căn nhà lá
ngăn nắp này phủ lên sự thể hiện của “túp lều tranh, hai trái tim vàng”, ấy
thế mà lại chỉ là máu mủ, nước mắt, những câu chửi ngày đêm, những thổn thức
như tiếng thạch thùng tắc lưỡi, và đêm đêm phải nghe tiếng cú vọng vào!
Chợt một đứa bé chạy tới đứng ở bậu cửa:
- Chú
Tân ơi, mẹ cháu bảo chú phải ra ngay chuồng lợn giống.
Tân vội đứng dậy, thì thầm với tôi:
- Thằng
con mụ Cú đấy, giọng ông tường không! Anh ngồi đây nói chuyện với anh Thìn
nhé, em đi một lát vậy.
Còn lại tôi và Thìn, chúng tôi nhìn nhau. Thìn dùng một tay còn lại tìm miếng
vỏ bưởi. Tôi hiểu ý vội làm hộ, vứt miếng vỏ bưởi xuống chậu than, mùi vỏ
bưởi cháy vừa thơm, vừa làm căn nhà ấm lại. Hai mắt Thìn lúc này dịu lại,
hiền lành như mắt gà con mới mở, Thìn nhìn tôi:
- Em
xin lỗi anh. Em điên đấy. Tại em yêu và thương cô Mai cũng như em thương
thằng Tân và cái si tình của nó với Mai. Phần lớn trong ngày em nằm để đau
đớn cho số phận, buốt nhói từ các vết thương chẳng bao giờ lành, cho nên em
hay suy diễn. Bố mẹ đẻ em là dân Nam-định, đều là liệt sỹ chống Pháp. Em còn
ông chú và thằng em, nhưng họ đã quên em rồi vì sợ phải cáng đáng cái thân
phận tàn tật này. Điều họ cần họ đã có rồi, đó là ghi em trong lý lịch của
họ: thương binh loại đặc biệt trong đánh Mỹ.
Thìn nhăn nhó cười mỉa. Tôi nâng đầu Thìn lên cho uống hớp chè tươi. Lúc
trước hẳn Thìn cũng khá đẹp trai, mũi thẳng, môi dưới tề tề đa cảm và hàm
răng nhỏ, đều. Thìn nhìn tôi cảm ơn và nói tiếp:
- Em,
bị thương từ 1964, ở bến phà Linh-cảm, vì xe ô-tô chở súng đạn vào chiến
trường miền Nam bị nổ. Họ đưa em ra Hà-tĩnh, ở đấy mấy thằng bác sỹ chó chết
đã cưa hai chân và một tay em. Một trung úy, đại đội trưởng đại đội vận tải
mà bây giờ như thế này đấy anh ạ.
Đôi mắt Thìn nhìn vào khoảng không như đang sống lại trong quá khứ:
- Những
ngày ở bệnh viện mê man kề bên cái chết, em luôn nằm mơ thấy một người con
gái đẹp – em biết là đẹp – nhưng không sao nhìn rõ mặt. Cứ hễ lần nào em cầm
tay cô ta, ở ngón út bên phải có một cái bớt xanh nhỏ bằng hạt đậu thì tự
nhiên cô ấy biến mất và em tỉnh lại. Sau năm 1965, để động viên thanh niên đi
bộ đội vào Nam đánh nhau, mà cũng là để giải phóng cho các bệnh viện, trại
thương binh tiếp nhận bệnh nhân mới từ các chiến trường đưa ra – là sau này
em mới hiểu điều đó – và cũng để bớt gánh nặng cả tiền lẫn người cho chính
phủ, ông Hồ chí Minh chỉ thị cho đảng và đoàn thanh niên tổ chức cho các nữ
đoàn viên thanh niên, kể cả ngoài đoàn, ở các địa phương hẻo lánh, tình
nguyện lấy thương binh làm chồng và làm đơn tình nguyện trả lại mọi trợ cấp
thương tật cho nhà nước, tự mình nuôi chồng. Ai chấp nhận như vậy sẽ có một
số ưu đãi. Cuối năm 1966, không kể các nơi khác, ở Thanh-hóa này có hơn ba
chục cô ra bệnh viện Hà-tĩnh làm đám cưới tập thể với thương binh, trong đó
có cặp Mai và em.
Thìn im lặng một lúc rồi tiếp:
- Khi
nghe phổ biến chủ trương trên, em chẳng vui cũng chẳng buồn. Biết mình thành
quái vật em đã khóc nhiều đêm và sự đau đớn quá độ làm chai lỳ, mất hết mọi
xúc động và cảm giác. Hôm đám cưới, bên nhà gái có mụ Cú vào chọn chàng rể,
mụ đi khắp lượt và đã chọn em, làm xong thủ tục nhận về địa phương, mụ giắt
Mai vào. Vừa thấy Mai, tự nhiên em như thấy mình sống lại, như có một sinh
khí mới ập vào lồng ngực em. Tóc của Mai dài, đáng lẽ dùng cặp tóc thì Mai
dùng chiếc khăn tay nhỏ buộc lại. Hai con mắt to màu hạt dẻ nhìn em rụt rè,
sợ hãi. Mặt tái mét, một lúc sau mới run giọng nói:
- Chào
anh. Em là Mai, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao đẹp, vì tình quân dân cá
nước thiêng liêng, từ nay em là vợ của anh. Chúng ta kết đôi để làm thành một
gia đình kiểu mới, trong đó vợ chồng còn là tình đồng chí, giúp nhau tiến bộ
để thực hiện tốt đẹp sự nghiệp vĩ đại của đảng và bác Hồ vô vàn kính yêu của
chúng ta.
Em tròn mắt thấy những câu rất “chính trị” ở mồm một cô gái mặt non choẹt và
ngây thơ như Mai, nhưng chợt nghe từ xung quanh, các cô khác cũng nói đúng
câu nói như vậy với các ông chồng vừa biết mặt. Thú thật với anh, nhìn Mai em
xúc động và thấy yêu cô ấy ngay từ lúc gặp mặt lần đầu ấy. Yêu điên cuồng anh
ạ. Giá em đủ cả hai chân, hai tay, em sẽ chạy lại ôm cô ấy vào mình, che chở
cho cô ấy. Đứng cạnh mụ Cú, Mai như nàng tiên trong chuyện cổ tích bên cạnh
ác quỷ. Và, em chợt tự hỏi không biết nên cám ơn mụ Cú đã mang Mai đến cho
em, vì em là thương binh tàn tật nhất mà Mai lại là cô gái trẻ và đẹp nhất,
không thể có ai so sánh được chứ nói gì với hàng trăm cô gái Thanh-hóa và
Nghệ-an hôm ấy; hay nên căm thù mụ ấy đã đẩy em vào sự thách đố của hạnh
phúc.
Thìn ngừng lại như mệt mà cũng như nén tiếng thổn thức:
- Hôm
về nhà, chính căn nhà này anh ạ. Khi đã khuya, chỉ còn hai người, em nằm ở
đây và Mai ngồi ở chỗ của anh bây giờ, nét mặt vừa hốt hoảng, vừa chịu đựng.
Em ngắm Mai, lòng thắt lại và chợt hỏi: “Ngón tay út bên phải của Mai có cái
bớt xanh bằng hạt đậu phải không?” Vừa nghe thế, Mai giật thót người, nhìn em
mồm há hốc, rồi đột nhiên chạy ra ngoài. Em sững lại, đau đớn hiểu rằng Mai
nghĩ em là ma quái hiện hình. Rồi em phẫn nộ hắt chiếc khăn khỏi người cho
cái lạnh của tháng chạp làm dịu lại. Thấy thế, Mai vội chạy vào, nhặt chăn
lên đắp lại cho em, giọng nước mắt: “Em lạy anh, tha lỗi cho em, đừng làm
thế, cả hai vợ chồng mình sẽ khổ”. Rồi cô ấy úp hai bàn tay vào mặt nức nở.
Tự nhiên em tỉnh táo khác thường, bình tĩnh khác thường. Em nhìn cô ấy và…
anh có thể tưởng tượng được không, ngón tay út bên phải của Mai đúng là có
cái bớt màu xanh hằng hạt đậu. Em an ủi Mai. Cô ấy nín rất nhanh và lấy khăn
nước nóng lau mặt cho em, nước lá bưởi thơm một cách sảng khoái. Em chợt hiểu
“hạnh phúc là gì?” Em ước ao được hôn lên hai bàn tay mà các ngón khô lại,
lòng bàn tay có những cục chai của lao động nặng nhọc nhiều năm, nhưng không
dám. Rồi, có vẻ như một thế lực vô hình nào thúc đẩy, cô ấy nhẹ nhàng lên
giường nằm cạnh em.
Nói đến đây Thìn nấc lên:
- Em
khổ quá anh ạ. Có ai ngờ một thằng như em, cao một mét bảy mươi tư, nặng bảy
mươi ký, có thể lùa một lúc hết tám bát cơm lèn, đang học hàm thu cơ khí năm
thứ ba, được một học viên loại xuất sắc ở lớp múa Ba-lê mê như điếu đổ, đột
nhiên trở thành quái vật như thế này. Lúc đầu em chửi cho số phận, nhưng rồi
em hiểu ra là tại em, tội ác của em bị quả báo anh ạ. Em, đã nghe Hồ chí
Minh, chuyên chở biết bao vũ khí vào Nam, làm chết và tàn tật biết bao đồng
bào trong đó, có thể cũng có nhiều người như em bây giờ. Tại sao không dùng
tiền của mua vũ khí, sức lực chém giết để xây dựng cái miền Bắc này? Tại sao
phải giải phóng miền Nam? Nếu cần đến sự giải phóng của Hô chí Minh thì người
ta đã chẳng bồng bế nhau di cư vào Nam và dân miền Nam đã ra tập kết hết ở
ngoài Bắc này, phải không anh? Chẳng qua là vì quyền lợi của lũ thực dân mới
Liên-xô và Trung cộng và cái chức chủ tịch cả nước Việt Nam, oai gấp hai lần
làm chủ tịch nửa nước. Chỉ có vậy thôi. Cái chân lý ấy chỉ cho đến lúc thành
quái vật em mới thức tỉnh, chịu một sự mặc khải sau khi nhiều lần hồn đã tới
cõi chết trở về. Khi hồn lìa xác phàm thì người ta nhận thức được chân lý,
nhưng quá muộn, cũng như người ta làm cho linh giác chứng nghiệm được cái sắp
tới, đó là việc em mơ thấy ngón út bên phải có vết chàm của người con gái
chịu nghiệp nợ em.
Giờ tôi chẳng ngạc nhiên gì vì biết Thìn có trình độ ở bậc đại học. Biết bao
con người ưu tú như vậy ở cả hai miền Nam-Bắc đã trở thành nạn nhân thảm
thương và mãi mãi của tham vọng cá nhân tàn bạo của Hồ chí Minh, tôi tự hỏi
và thấy tái tê trong lòng. Chợt nghĩ đến những Jean Chesnaux, Burchett,
Madelein Riffaud, Jane Fonda… chẳng biết nên khinh vì họ cơ hội hay nên
thương vì họ mù lòa trí tuệ, rồi cả cái trò hề tòa án Bertrand Russel!
Tôi vứt một miếng vỏ bưởi và mẩu bồ kếp vào chậu than. Cho thêm vài mẩu than
mới rồi đỡ cho Thìn uống nước. Tôi hỏi:
- Ngày
thường Thìn cũng nằm một mình như thế này cả ngày sao? Ăn uống, đái ỉa như
thế nào?
- Vâng,
em nằm một mình. Mai chuẩn bị cho em đầy đủ và cho em ăn trước khi đi làm. Cô
ấy phải làm gấp hai, ba người ta để nuôi em và giúp đỡ thêm cho mẹ cô ấy và
hai thằng em nhỏ. Toàn là sáng kiến của cô ấy cả đấy: dưới đất em có một cái
rổ để tro được che bằng cái mo cau, hễ đái, ỉa em chỉ cần dùng tay còn lại
kéo dịch cái mo cau sang bên. Xong việc lại kéo vào như cũ. Cô ấy về nấu ăn,
rửa ráy cho em. Cô ấy tận tình và thực lòng xót thương em. Nhưng em nhìn ở
mắt cô ấy thì em biết không có tình yêu, cái tình yêu trai gái ấy mà.
- Sao
cậu biết được?
- Khổ
lắm, không thể cắt nghĩa và chứng minh được mà chỉ tự cảm nhận được thôi. Cô
ấy chỉ tận tâm như bà phước với bệnh nhân cùi, chứ không phải “yêu” như em
yêu cô ấy.
- Thế
thì cô ấy yêu ai?
- Cô ấy
không yêu ai, anh biết không, kể cả thằng Tân dù nó yêu cô ấy từ lúc chưa có
em len vào, từ lúc cô ấy mới đến cái trại này.
- Thế
sao cậu lại chửi và sỉ nhục cô ấy?
Thìn khóc thút thít:
- Tại
em yêu cô ấy. Em muốn cô ấy bỏ em, chán em đi rồi đi lấy thằng Tân. Chỉ có
vậy cô ấy mới ngóc đầu lên được, mới có hạnh phúc anh ạ. Em muốn hy sinh để
trả cái ơn cô ấy đã lấy em, đã săn sóc, thương xót em thật sự. Nhưng… đồng
thời em lại sợ mất cô ấy. Anh có thấy cái hố bên kia nương sắn không? Dấu vết
bom lạc của Mỹ đấy. Lần ấy cô ấy đã ôm em lăn xuống hào, dùng cả người che
chở cho em. Đó là lần đầu em sợ chết, bởi vì, lần đầu em ngửi thấy da thịt
của cô ấy, thấy cái nóng của sức sống của cô ấy bọc lấy cơ thể em. Còn ngày
thường, chúng em nằm cùng giường, nhưng em để cái quạt nan ở giữa hai người,
như lưỡi gươm của Tiểu Nhiên khi phải nằm cùng Mỵ Cơ. Anh có biết chuyện đó
không.
- Có,
đó là tên dịch từ câu chuyện tình bất hủ giữa Tristan và Yseult. Cậu đọc sách
nhiều nhỉ?
- Trước
kia anh ạ, Còn bây giờ em thích nghĩ nhiều hơn, và thích sống tưởng tượng. Em
luôn thấy mình đủ cả chân tay, em lái xe chở cả Mai, mẹ cô ấy và hai thằng em
rồi vào giới tuyến để vượt vào Nam, đi thật xa cái nơi này, chỉ như thế mới
có hạnh phúc. Chúng em sẽ lập nghiệp ở Đà-lạt. Anh thấy có được không? ở đó khí hậu tốt cho phụ nữ. Đẹp như
Mai lại càng đẹp ra. Em dự định chỉ ba đứa con thôi, hai đứa đầu là trai, còn
đứa con út phải là gái. Về già, em và Mai sẽ sống với con gái, chàng rể. Con
gái hiếu với cha mẹ hơn, còn đàn ông thì xề xòa ít để ý như con dâu. Chẳng
cần giàu có xa hoa, chỉ cần đủ ăn thôi. Bọn em làm nghề trồng hoa, làm đẹp
cho đời mà. Anh đọc “Gánh hàng hoa” chưa?
Tôi gật đầu không ngăn được nước mắt, phải vờ đi ra ngoài, sợ Thìn trông
thấy. Mọi người chẳng ao ước cao sang, người ta chỉ muốn sống yên bình.
Nhưng, buồn thay lũ ma quái như Hồ chí Minh lại chỉ muốn ngai vàng, muốn đi
vào lịch sử, muốn làm “bác”, làm “cha già” của cả dân tộc Việt Nam. Có ai
thống kê được bao nhiêu hạnh phúc bị Hồ chí Minh làm tan nát, bao nhiêu cuộc
tình chôn vùi trong máu và nước mắt? Tôi không muốn một Việt Nam anh hùng,
tôi chỉ muốn một Việt Nam hòa bình và hạnh phúc.
Tân trở lại và mời tôi lên văn phòng đảng ủy. Tôi vào chào Thìn. Nắm tay tôi,
Thìn lưu luyến:
- Thế
nào anh cũng phải quay lại với em, cả thằng Tân nữa, để ăn một bữa cơm Tết.
Tôi hứa hễ rảnh tý chút sẽ trở lại nói “tâm sự” với Thìn.
Tuy nhà ngói một tầng, nhưng văn phòng đảng ủy trông đẹp. Rõ ràng đây là bộ
mặt để tiếp khách đến “tham quan” trại. Mụ Cú ra tận cửa đón tôi. Ngồi chưa
yên chỗ thì thấy một người đàn bà đứng tuổi – trạc mụ Cú – bê cái khay có hai
đĩa sôi nếp thơm phức hành phi mỡ và một đĩa thịt kho tàu. À thì ra ăn sáng.
Đưa sôi và tiếp thịt cho tôi, mụ Cú miệng nói:
- Mời
đồng chí dùng sáng, cây nhà lá vườn. Nếp là tăng gia tự túc của trại, thịt
lợn của trại luôn.
Tôi nói đùa:
- Còn
củi, lửa và nước?
- Dạ,
tất cả là của đảng, của bác ạ.
Rồi mụ thành kính ngước lên trần nhà, tôi nhìn theo. Thì ra, bàn thờ “tổ
quốc” trên cao chót vót, hương nến nghi ngút, cùng đĩa sôi trắng và đĩa thịt
kho tàu; cùng hoa tươi cắm lọ. Tôi cũng chẳng lạ lắm, vì đây là “lệ mới” bất
thành văn, ở đâu cũng thế, cho dù chưa chắc họ đã tin yêu gì Hồ. Hệt như mấy
anh sư hổ mang, thầy chùa “quốc doanh”, nhang khói trên bàn thờ Phật nhưng
chúng vẫn làm chuyện bậy bạ ngay trong điện thờ. Trung ương đảng đang xây
lăng cho Hồ kia mà.
Mụ
quay bảo Tân và người đàn bà kia:
- Thằng
Tân qua bên anh Cam xem cho xe đi sửa chữa ra sao để còn dùng đi chúc Tết
chứ. Còn Lài, mày xem lại báo cáo tổng kết để Tết ra tao cho mở “đại hội công
nhân viên chức” của trại.
Phó giám đốc Tân bỏ đi. Về sau, tôi được biết Lài là thư ký công đoàn. Đó là
thực tế “đảng lãnh đạo toàn diện” đấy! Kiểu “lãnh đạo” của chủ với đày tớ.
Tôi nhớ lại những lần họp “quốc hội” mới, Hồ chí Minh cười hề hề với các đại
biểu:
- Bác
giới thiệu chú Đồng làm thủ tướng, các cô, các chú đồng ý thì cho tràng pháo
tay.
Tất nhiên, cả hội trường đứng dậy thi đua vỗ tay xem của ai kêu to hơn, trong
cái không khí đó, tiếng của chủ tịch Hà-nội Trần duy Hưng, gào như muốn bể
phổi: “Hồ chủ tịch muôn năm!”, y hệt “Heil Hitler!”.
Ăn sáng xong, mụ Cú đích thân đưa tôi đi tham quan trại, cho đến bữa cơm
trưa, rồi lại đi cho đến bữa cơm chiều. Hai bữa ăn vẫn là món ăn do bàn tay
Hà-nội nấu. Tôi no mà vẫn cứ muốn ăn, để được có thêm cái hơi “Hà-nội”.
Tối đến, Tân đi họp. Tôi vội sang bên nhà Thìn, thực lòng vừa thăm Thìn nhưng
có lẽ lý do chính yếu là muốn biết mặt Hoàng Mai.
Tôi đẩy cửa vào, chỉ có tiếng ngáy của Thìn. Chẳng có ai. Con mèo tam thể ở
đâu chạy lại, cong đuôi dụi đầu vào chân tôi, rò rò vẻ hài lòng. Có tiếng
động phía sau, tôi quay lại. Tôi biết ngay đó là Hoàng Mai. Chiếc khăn màu cỏ
úa buộc trên đầu vẫn để lọt những sợi tóc mai mượt mà, làm nổi bật khuôn mặt
bầu bầu, trắng hồng, lại càng hồng thêm có thể vì cái lạnh của tháng chạp mà
cũng có thể vì thẹn. Môi đẹp như tranh tố nữ của bạn tôi, họa sỹ Trần đông Lương
– vua tranh lụa. Cái áo cánh màu vỏ sim kín cổ làm cho cổ thêm cao và trắng.
Tôi chợt tự hỏi: “Phải chăng đây là giáng kiều, của Tú Uyên, xuống trần lại”.
Mai khẽ chào:
- Em
chào anh. Mời anh ngồi ạ.
Giọng nói vừa cất lên, tôi đã như thấy trước mắt cái ngày giáp Tết Đinh Mùi.
Sông Hồng hôm đó trắng nõn sương mù, không có bến, có bờ, có đầu, có cuối.
Mai pha trà, lấy mứt, và ngồi vào mép giường của Thìn. Đôi tay nhẹ nhàng kéo
lại chăn và khẽ sờ lên trán Thìn.
- Cả
trưa, chiều nay anh ấy gào khóc. Y tá phải tiêm thuốc và cho anh ấy uống
thuốc ngủ ạ. Em đang bận dọn dẹp không biết anh tới chơi, thất lễ quá.
Nghe Mai nói, tôi thấy thú vị vì nghĩ chính sách của Hồ chí Minh không thể
“cải tạo” được cái chất Hà-nội, đó là truyền thống mà.
Tôi nhìn Mai:
- Chúng
ta đã cùng đi một chuyến tàu thủy dịp gần Tết năm 1967, có đúng không cô Mai?
Mai gật đầu, rồi để giấu vẻ lung túng, chế thêm trà cho tôi:
- Hôm
tôi tới đây chắc cô nhận ra phải không? Còn tôi chỉ nhận ra cô ở giọng nói.
Im một lúc, Mai nói:
- Dạo
ấy hai chúng em vừa cưới xong. Anh Thìn em không thể đi được, nên em về quê
anh ấy lễ mộ ba, mẹ chồng em, nhưng… nhưng… bị đưa đi đâu hết cả rồi anh ạ.
Nghĩa trang bị phá bỏ làm công trường. Em đành đứng ở đó mà khẩn vọng vậy.
Rồi ngập ngừng, Mai tiếp:
- Trước
lúc anh xuống, hành khách biết cả vì ở trên tàu người ta phổ biến là có nhà
báo đi thực tế, mọi người cố giữ gìn rồi sau thì lại cứ việc thoải mái.
- Thế
sao cô nhận ra tôi?
- Cái
anh thuyền viên râu quai nón ấy báo động cho khách rồi bấm đèn pin nên mọi
người biết mặt anh hết.
Tôi phì cười:
- Đâu
cũng thế cô Mai ạ. Họ toàn bịp bợm, như trại này chẳng hạn, thế này mà cũng
điển hình và xuất sắc.
Mai sợ hãi:
- Đừng
anh ạ. Tai vách mạch rừng, có thế nào thì chỉ khổ em.
Tôi xin lỗi rồi dần dần lái vào chuyện của Mai. Có điều lạ là Mai có vẻ tin
tôi ngay:
- …
Vâng, em biết anh Thìn đau khổ, nhưng em chẳng biết phải như thế nào. Em dần
dần thương anh ấy thực lòng, và thấy anh ấy chửi em cũng đúng. Bà Cú bảo em
muốn thay đổi thành phần thì phải “đầu hàng giai cấp công nhân cả hành động
và tư tưởng”, phải vì sự nghiệp của “đảng và bác Hồ” mà phấn đấu không do dự.
“Đảng và bác Hồ” muốn em đền ơn đáp nghĩa những người đã cống hiến xương máu
cho sự nghiệp của “đảng và bác”. Và, em vâng lời, hoàn toàn tự nguyện.
Tôi bực mình:
- Có
thật “tự nguyện” không? Và, tôi kể câu chuyện vui của Bernard Shaw về tự
nguyện và biện pháp.
Mai tròn mắt nghe tôi kể. Tội nghiệp, trong Mai háo hức được học hành hiểu
biết.
Tôi thấy một sự đồng cảm giữa chúng tôi, những người Hà-nội với nhau. Mai do
dự, rồi nhắc lại thời thơ ấu trước 1954. Cả hai, Bạch Mai và Hoàng Mai đều
học ở Rosaire, trường của các Mẹ áo trắng. Tôi nói cho Mai biết, nay trường
đó – ở phố Hàng Chuối, Hà-nội – bị lấy làm văn phòng bộ tài chính. Rồi Mai
lại kể là hai chị em cũng có ý nghĩ sau này sẽ đi tu như các Mẹ – mặc dù gia
đình Mai theo đạo Phật. Mai hào hứng kể về Mẹ bề trên, đẹp, hiền dịu và thông
thái, hình như thuộc gia đình quý tộc ở Pháp. Và, Mai thích thú:
- Từ đó
cho đến nay, lúc nào em cũng cầu Trời, Phật phù hộ cho gia đình em, bây giờ
thì thêm cả anh Thìn. Rồi em lại cầu xin đức Mẹ Maria cho gia đình em sự an
lành. Em vẫn kín đáo đọc kinh, nhất là khi đi thăm mộ ba em và chị Bạch Mai
em. Xưa đi học bao giờ em cũng được điểm cao về catéchisme.
Khi lái sang chuyện của Tân, tôi khéo thăm dò quan hệ của Mai – Tân ra sao,
Mai nói:
- Em
rất kính trọng anh Tân, nhưng chưa bao giờ em yêu anh ấy. Em nghĩ bọn em
không thể hợp nhau.
- Thế
còn Thìn?
- Chúng
em là vợ chồng mà, và sẽ gắn bó với nhau trong tay Chúa.
Tôi thán phục:
- Mai
sống rất nghị lực bởi Mai có đức tin
Mai nhìn tôi:
- Anh
có đức tin không?
Tôi gật đầu. Mai thoáng ửng hồng đôi má:
- Ngay
lần đầu nhìn thấy anh, hôm đó là ngày cúng ông Táo về Trời, em nghĩ ngay anh
là người tốt, kính trọng anh và em linh cảm sẽ có ngày gặp lại anh. Em kể cho
chị Bạch Mai nghe, chị ấy đang ở trên kia, trong nước Chúa. Em luôn tâm sự
với chị ấy.
Tôi cảm thấy một nỗi buồn man mác, tái tê.
Không tiện ngồi lâu vì Thìn ngủ, tôi ra về nằm chờ Tân rồi ngủ lúc nào không
biết. Tôi mơ thấy đi trong mây trắng nõn nà. Tôi thấy mình bay bay. Khi tỉnh
giậy, tôi sờ lên cổ, còn thấy cây thánh giá làm bằng tre, đã lên nước, nhỏ tý
xíu, có sợi giây dù để đeo. Đúng là sự thật như đêm qua tôi đã nghe Mai nói:
- Từ
nay, đêm đêm em sẽ cầu xin Đức Mẹ ban ơn lành cho anh… đó là… phần cầu xin
cho tình bằng hữu. Em biếu anh cây thánh giá này, của em đấy, em sẽ đeo cây
của chị Bạch Mai em để lại, nhưng phải lúc đêm khuya, còn sáng ra phải đem
giấu thật kín. Còn đang bang khuâng với mộng và thực thì tôi thấy mụ Cú tới
và một người đàn ông lạ mặt. Mụ ta nghiêm chỉnh:
- Báo
cáo đồng chí nhà báo, có điện từ Hà-nội vào, đồng chí phải ra ngay với đoàn
xe vận tải số 2 ngoài Nghệ-an. Đây là đồng chí ở đoàn 2, từ Hà-nội vào đón
đồng chí.
Tôi sững người và càng buồn khi biết Mai phải vào rừng, còn Tân ra tỉnh về
chuyện chiếc ô-tô con. Tôi chạy sang chào Thìn. Bàn tay xương xẩu của Thìn
nắm chặt tay tôi:
- Anh
ráng cẩn thận, đừng ngu như em.
Tôi gật đầu vội quay đi giấu sự xúc động.
Tôi và xe đạp “nằm” ở thùng chiếc xe tải. Đường xóc như rang cà-phê.
Từ đó chẳng bao giờ tôi có dịp gặp lại Mai, Thìn và Tân. Nhiều lần cầm bút
viết thư rồi lại xé đi.
Cho đến nay, hơn hai chục mùa xuân qua đi, chẳng biết những người đó còn sống
hay chết. Nếu còn sống nhất định Mai vẫn cầu xin Mẹ Maria cho tôi trong phần
bằng hữu cũng như tôi cầu xin cho Mai và gia đình và dân tộc Việt Nam chúng
mình. Không còn gặp lại nhau nữa, nhưng tôi hiểu rằng cả Mai, cả Thìn, cả Tân
và ngày càng nhiều người thức tỉnh được rằng Hồ chí Minh và các đệ tử của hắn
chưa bao giờ là những người Việt Nam yêu nước!
Tháng
12/1992
Chú thích:
* Nhà báo Trọng Kính từng viết cho
các báo ở Hà-nội trước năm 1975. Ông cũng là Việt Thường ở hải ngoại và là
tác giả ba quyển “Chuyện thâm cung dưới triều đại HCM; Con yêu râu xanh ở
Việt nam; Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt
Nam” và bài ký sự này này.
1) Xe đạp của Pháp, nhãn hiệu
Peugeot.
2) Seiko: đồng hồ của Nhật.
3) Bà bô: mẹ đẻ.
4) Ý nói bố sắp chết. Văn-điển là
nghĩa địa.
5) Ý nói có cấp trên nâng đỡ, bao
che.
6) Cửa hàng cung cấp riêng cho loại
cán bộ trung cao.
7) Khẩu hiệu thời chiến tranh với
Mỹ ở phía Bắc.
8) Tức người nấu bếp.
|
Ông Việt Thường ơi, chuyện xúc động quá.
AntwortenLöschenCũng như tôi, mỗi lần đọc là xúc động chẩy nước mắt. Ông Việt Thường còn nhiều bài khác rất hay và cảm động lắm, nhưng đặc biệt là các bài của ông rất có sức thuyết phục, dạo này thi thoảng mới thấy ông có bài nói chuyện mới đăng trên blog này.
AntwortenLöschenTrong Nam có nhà văn Duyên Anh viết những truyện ngắn sống động như truyện này và đặc biệt 2 cuốn truyện dài " Một Người Nga ở Sài Gòn" , " Đồi Fanta " mà tôi vẫn còn nhớ và mê.
AntwortenLöschen