SỰ TÍCH: CON YÊU RÂU XANH Ở VIỆT NAM
* * * * *
Việt Thường
Bài 1
Chủ quan và khách quan
Tôi tự nhận cũng như luôn luôn giữ quan điểm khi xem
xét hoặc phân tích các hiện tượng xã hội ở Việt Nam, đã và đang dưới sự thống
trị của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản, bằng lăng kính chủ quan. Nghĩa là,
bằng mắt tôi thấy; bằng tai tôi nghe; bằng óc tôi nhận xét và phân tích; bằng
khả năng ngôn ngữ của tôi để diễn đạt. Đặc biệt, khi nghe ai nói, tôi cũng hỏi
cặn kẽ để biết nguồn tài liệu có đáng tin không; bao nhiêu là thực, bao nhiêu
là giả.
“Tại sao không khách quan?” Xin thưa rằng: Tình hình
xã hội Việt Nam từ ngày tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam, mà khởi đầu
là Hồ chí Minh, đặt ách thống trị thì chỉ có hai cách nhìn. Một là của đại đa
số nhân dân Việt Nam bị tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam đặt ách thống
trị; và cách nhìn thứ hai là của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam, do
chính chúng diễn đạt hoặc chỉ đạo cho tay sai diễn đạt. Không thể nào có
cách thứ ba, hay gọi là khách quan. Bởi vì thực tế lịch
sử đã cho thấy: Tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản trong mọi việc đều suy nghĩ và
hành động theo chủ quan của chúng. Còn người dân bị trị, giác ngộ thân phận của
mình cũng suy nghĩ và hành động theo chủ quan của mình. Một bộ phận nào đó
trong nhân dân (tỷ lệ nghịch với thời gian), thoạt đầu có thể chiếm khá đông,
do nhiều nguyên nhân như bị tuyên truyền bịp bợm của cộng sản, do thiếu thông
tin v.v… nên mơ hồ quyền lợi và thân phận. Cách nhìn của bộ phận đó được gọi là
khách quan, nhưng thực ra nó ngả về phía của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản
và nó thường được sự đồng tình của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản giống cái
gọi là thành phần thứ ba (3) ở miền Nam trước tháng 4-75 vậy. Một thí dụ của
cách nhìn đó là việc nhận định: “Hồ chí Minh có công đánh thực dân, đế quốc,
tuy nhiên cũng có tội du nhập chủ nghĩa cộng sản”. Nói vậy là mơ
hoà, là ngụy biện. Không thể
tách công và tội ra được, vì đây là hai mặt của một vấn đề. Phải tự hỏi: “Tại
sao phải đánh thực dân đế quốc?” Trả lời: “Là để khỏi bị áp bức, bóc
lột, được tự do, hạnh phúc.” Cho nên nếu đánh thực dân, đế quốc mà còn bị
áp bức, bóc lột, mất tự do và bất hạnh hơn, thì đánh làm gì! Đi buôn mà lỗ
thì chỉ có tội, làm gì có công!!! (Chẳng lẽ ghi công làm sổ sách cần mẫn,
họp hành tiệc tùng không mệt mỏi hay sao?!) Chính Hồ chí Minh rất ma giáo nên
cũng nêu lên những ý thật là chí tình để dụ khị mọi người và che bộ mặt thật là
“lưu manh chính trị” của hắn. Hồ đã nói rằng độc lập mà không có
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì. Như vậy, nếu theo Lữ Phương,
rằng Hồ đã có công “… tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các
thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất (sic); ta cứ tạm
coi như là thực sự có độc lập, thống nhất đi. Nhưng tự do rõ rệt vẫn chỉ là cái
bánh vẽ vĩ đại biểu hiện rõ nhất trong điều 4 hiến pháp và nghị định 31/CP của
chúng, thì, như cách Hồ lý luận: “cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Làm một
công việc “chẳng có ý nghĩa gì” mà lại coi là “có công” thì đúng chỉ có
cái đầu kiểu Lữ Phương mới “khách quan” kết luận như vậy – Kiểu viết lách như thế
là kiểu viết loạn cào cào nhằm lách cái chất nịnh hót, bợ đỡ mà thôi.
*****
Vài nét về con người Hồ chí Minh của Lữ Phương
Trong đề cương “Huyền thoại Hồ chí Minh” Lữ Phương vội
khẳng định rằng: “Một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân
vật lịch sử này” (tức nhân vật Hồ chí Minh).
Như lời giới thiệu, của “Nhóm Nối Kết”, thì bài này
của Lữ Phương được: “gửi đến các bạn, đặc biệt các bạn trẻ”. Cho nên Lữ Phương khôn ngoan dùng
cụm từ “nhìn công bằng” để nhử những người trẻ tuổi là tầng lớp chưa va vấp với
đời, thích công bằng (nhất là tuổi trẻ ở hải ngoại có ưu điểm chấp nhận tự do
tư tưởng, ghét sự áp đặt hoặc độc quyền chân lý).
Vậy cái công bằng của họ Lữ về Hồ chí Minh là gì? Họ
Lữ viết: “Hồ chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản
quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt
Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại,
đã hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ
gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam!”
Họ Lữ mô tả về Hồ: “Cái cốt cách thanh thoát mờ ảo
ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt xương
xương, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất
nhiều so với một số lãnh tụ công sản châu á
khác như Mao trạch Đông chẳng hạn. Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước
công chúng do vậy ngoài một lãnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một
hiền triết phương Đông”.
Họ Lữ tiếp tục nâng bi họ Hồ: “Từ một người anh
hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các truyện thiếu nhi,
một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là
hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đã
dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài-gòn, khói hương nghi ngút. Ngày
nay nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, không phải chỉ riêng ông (nhiều liệt sĩ
cộng sản đã thành thần trong các miếu, các đền).”
Tiếp theo đó, họ Lữ bó buộc phải điểm lại một số bê
bối, nhăng nhít của họ Hồ (cho ra vẻ công bằng và khách quan). Sợ
tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản hiểu lầm là Lữ phạm thượng, nên họ Lữ vội viết
tiếp rằng: “Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh
thật thuyết phục” (nghĩa là họ Lữ cho rằng họ Hồ bị bôi nghọ nên hắn không
tin). Rồi để khẳng định với quan thầy mafia cộng sản cái tinh thần nâng bi, họ
Lữ viết toạc móng heo quan điểm của hắn về hành động điếm đàng, bê bối của họ
Hồ, rằng: “Nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng
lắm”. Đây cũng là ý đồ của họ Lữ muốn gửi lên quan thầy mafia cộng sản
đương quyền của hắn, rằng Hồ có đụ bậy, giết người diệt khẩu v.v… cũng chẳng
sao về mặt đạo đức, thì đương nhiên loại đụ bậy, tham nhũng, sát nhân Đỗ Mười,
Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Võ văn Kiệt, Đào duy Quát (con của Đào duy Tùng),
Nguyễn khoa Điềm, Phạm thế Duyệt… qua lăng kính của Lữ, chúng vẫn đạo đức sáng
ngời.
Tôi chưa từng biết Lữ Phương, nhưng các cụ nhà ta dạy
rằng “văn là người”, nên có thể nói rằng: Lữ Phương là tên
điếm chữ nghĩa có hạng đấy. Này nhé, nhận xét về việc thờ cúng họ Hồ và
những tên mafia cộng sản khác, về thời điểm thì nói là sau 1975, nghĩa là sau
cái ngày đệ tử của Hồ, đã xâm lăng miền Nam và đặt xong ách thống trị, đẩy
nhiều triệu người phải bỏ nước ra đi, đưa hàng triệu người đi tù không xét xử,
giết hại và cướp bóc tài sản của nhân dân, dân phải đi làm sưu dịch còn nặng
hơn bọn Tô Định thời Bắc thuộc, thế mà Hồ vẫn được người ta thờ phụng. Họ lữ
mập mờ không nói rõ cho “các bạn trẻ” biết rằng việc dựng bàn thờ họ Hồ
có từ thời Hồ còn sống. Hắn và cái tổ chức mafia của hắn đã đẻ ra cái trò này
chứ không phải là nhân dân tự nguyện (tức người ta) như họ Lữ sử dụng cụm từ
“người ta” (tức nhân dân). Miền Bắc trước đấy và miền Nam sau này, hẳn ai ai
cũng nhớ là công an hộ khẩu kiểm tra từng gia đình, nhà nhà phải có ảnh họ Hồ
và thờ hắn, nếu không sẽ bị công an ghi sổ đen là “phản động”. Đểu giả hơn nữa,
họ Lữ còn dám viết rằng ngày nay (tức là thế kỷ 21), nhiều nơi vẫn giữ thói
quen này, nghĩa là theo cách “nhìn công bằng và khách quan” của họ Lữ
thì: Người dân miền Nam, sau 1975, đã tự nguyện dựng bàn thờ để thờ Hồ. Sự
tự nguyện đó đã trở thành thói quen (nghĩa là tập quán, là đời sống văn hóa,
tâm linh của nhân dân) cho đến ngày nay, chứ không phải do chủ trương của tập
đoàn mafia cộng sản áp đặt. Nâng bi họ Hồ chưa đủ, Lữ Phương lại còn khéo
léo nhắn nhủ với tập đoàn mafia cộng sản về tinh thần khuyển mã của hắn khi
viết rằng: “nhiều liệt sỹ cộng sản đã thành thần trong các miếu, các đền”.
Những tên mafia cộng sản bị nhân dân Việt Nam giết trong cuộc xâm lăng, ăn cướp
làm sao có thể gọi là liệt sỹ được?! Làm sao những tên cướp ngày đó lại có thể
ngang hàng với các liệt sỹ dân tộc như Nguyễn Thái Học, Ký Con, Trần Bình
Trọng, Nguyễn Biểu, Nguyễn Khoa Nam v.v… Làm ảo thuật về ngôn ngữ như thế sợ
quan thầy còn mơ hồ nên dưới đó Lữ Phương phải lật bài tẩy khi viết: “Tính
chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản
theo con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền”.
Nghĩa là họ Lữ nịnh các đệ tử của Hồ trong ngụy quyền Hà-nội cộng sản đi theo
con đường của ông (tức Hồ). Những tên xâm lược, giết hại dân lành (như vụ Tết
Mậu Thân ở Huế chẳng hạn) được Lữ Phương nâng lên là “trong sạch lý tưởng,
biết hy sinh vì nghĩa lớn”. Còn những quân nhân miền Nam chiến đấu để bảo
vệ mảnh đất và lối sinh hoạt của miền Nam – là vùng lãnh thổ mà chính tập đoàn
Hồ chí Minh đã hai lần ký kết cam đoan với quốc tế về sự phân chia đó thì bị
tập đoàn mafia cộng sản và Lữ Phương gọi là ngụy, là phản động!!!
Lữ Phương khẳng định rằng những chuyện tình bẩn thỉu
của họ Hồ là: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục.”
Xin tạm nêu ra hai vấn đề để xem Lữ Phương có dám chơi
bạo hòng biết hư thực ra sao. Đó là:
1) Có thể thử nghiệm DNA của Nông đức Mạnh, Nguyễn tất
Trung (con của Hồ với cô Nông thị Xuân, nay Vũ Kỳ nuôi) và cô con gái của
Nguyễn thị Minh Khai với DNA của Hồ để thấy kết quả khoa học ra sao, đã đủ
thuyết phục chưa?
2) Họ Lữ táo tợn làm đề cương viết về Hồ chí Minh mà
chỉ cần nêu ra hai dẫn chứng để thấy họ Lữ nông cạn thông tin về họ Hồ và tập
đoàn của hắn đến mức nào. Trong hồ sơ lưu trữ của ban chấp hành đảng cộng sản
Nga-xô, có lưu giấy hôn thú giữa Hồ và Nguyễn thị Minh Khai. Nhưng, tập đoàn
mafia cộng sản cũng như họ Hồ đều duy trì trong dư luận nhân dân bằng giấy
trắng mực đen hẳn hoi, rằng Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê hồng Phong, đến
mức khoảng năm 1990, tờ Sàigòn Giải Phóng còn đăng bài kêu gọi đoàn thanh niên
cộng sản và giới chức cai trị cái đất Sài-gòn hãy giúp đỡ cô con gái của Nguyễn
thị Minh Khai và Lê hông Phong (thực ra là của Khai và họ Hồ).
Tại sao Hồ và tập đoàn tay sai cố tình tạo ra sự ngộ
nhận đó? Xin thưa rằng, sự thực của vấn đề đó như sau: Trước khi rời Việt Nam
qua Nga-xô thì Nguyễn thị Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Việc này
đương sự có báo với trung ương cộng sản lúc đó. Thế rồi khi cả hai được triệu
tập qua Nga-xô để học thì Lê hồng Phong đi trước, còn Minh Khai qua ngã
Hồng-kông để được Hồ (dưới bí danh Lý Thụy) dạy vỡ lòng tiếng Nga và chính trị
sơ đẳng để dễ dàng khi nhập học trường Đại học Phương Đông (Nga). Chẳng biết Hồ
dạy Minh Khai học ra sao mà chữ chẳng vào “đầu” mà vào “đầy
bụng”. Câu chuyện đổ bể khi Minh Khai tới Nga-xô nên Lê hồng Phong đành
nuốt hận nghe lời lãnh đạo Nga-xô, nhường hôn thê cho Hồ và có giấy giá thú làm
bằng để sau này Lê hồng Phong khỏi lôi thôi. Vì sự thiệt thòi đó và thái độ
vâng lời cấp trên nên Lê hồng Phong được cho làm ủy viên dự khuyết trung ương
quốc tế 3. Đó là nhân vật cộng sản Việt Nam duy nhất được giữ vị trí gọi là
“lãnh đạo của cộng sản quốc tế”. Còn Hồ, thực ra chưa bao giờ là thành viên
trung ương của cộng sản quốc tế. Hắn chỉ công tác ở Cục Phương Đông, là một bộ
phận của quốc tế 3 mà thôi, giữ nhiệm vụ liên lạc giữa đảng cộng sản Đông-dương
với quốc tế 3. Những lá thư của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 tố cáo
hành vi cáo đội lốt hùm còn đó, ai cũng tham khảo được, chẳng biết họ Lữ đã cẩn
trọng đọc qua chưa, trước khi múa bút, lè lưỡi bốc thơm họ Hồ. Câu chuyện tình
bi ai giữa Hồ, Lê hồng Phong và Minh Khai được giữ bí mật ngay cả đối với các
thành viên cộng sản Đông-dương. Bởi vì như trước đó ai ai cũng biết Minh Khai
là hôn thê của Lê hồng Phong. Hồ là một tên gián điệp có năng lực của Nga-xô
trong vùng Đông-nam-á; Minh Khai và Lê hồng Phong đang được đào tạo để thành
“lãnh tụ” của cộng sản Đông-dương, tức đạo quân thứ 5 của Nga-xô tại
Đông-dương. Nếu để lộ việc Minh Khai chửa hoang, Lê hồng Phong bị cắm sừng và
họ Hồ là kẻ chuyên đụ bậy, kể cả vợ của đồng chí mình thì hậu quả sẽ như thế
nào. Các cụ nhà ta xưa có dạy: Làm đĩ chín phương cũng phải để một phương
lấy chồng”. Còn họ Hồ, kẻ được Lữ Phương tô vẽ nào là “anh hùng giải phóng
dân tộc”, “lãnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; nào là “ông tiên”; nào là
“nguồn cảm hứng vô tận” v.v… đã quên lời các cụ dạy để cho con “lợn nọc” trong
lòng dẫn dắt đến mức “đụ bậy cả mười phương”, già chẳng tha (như Trương thị Mỹ,
Đinh thị Cẩn), trẻ chẳng thương (như cô bé 17 tuổi đưa cơm ở Pắc-bó); cô Nông
thị Xuân mẹ của Nguyễn tất Trung, và ngay cả Nguyễn thị Minh Khai cũng bị họ Hồ
phá trinh lúc mới có 21 tuổi, và v.v…)
Cuộc tình tay ba đó đã khiến Lê hồng Phong ngã ngựa.
Chẳng là, sau khi được là ủy viên dự khuyết trung ương của quốc tế 3, Lê hồng
Phong được Nga-xô chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương
(nghĩa là chẳng có bầu bán gì). Khi ấy Hồ là phái viên của cục Phương Đông, nên
trước khi đáp tàu thủy về Chợ-lớn (Sài-gòn) giả dạng trong vai thương gia người
Tàu, Lê hồng Phong phải ghé qua Thượng-hải (Tàu) để nghe Hồ báo cáo tình hình ở
Đông-dương lúc đó, cách thức đi cũng như mật khẩu bắt liên lạc với trung ương
cộng sản Đông-dương. Chuyện đó chỉ có Lê hồng Phong và Hồ biết với nhau, vậy mà
Lê hồng Phong vừa bước chân tới Chợ-lớn đã bị mật thám Pháp thực dân bắt. Nhớ
lại vụ Hồ bán cũ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp thì tình huống vụ Lê hồng
Phong cũng như vậy. Nghĩa là Hồ tìm mọi cách mượn tay thực dân Pháp hãm hại tất
cả những ai là đối thủ quyền lực hơn Hồ, trong con mắt của quốc tế 3. Đối với
Lê hồng Phong, Hồ còn sợ với chức vụ ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3,
kiêm nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản Đông-dương, Lê hồng Phong với cái hận Hồ
cắm cho cặp sừng dê trong vụ Minh Khai, thế nào cũng chờ dịp “thiến sống” họ
Hồ, vì vậy Hồ ra tay trước. Và, vì toàn đảng cộng sản Đông-dương đều biết Minh
Khai là hôn thê của Phong, cho nên khi cả Minh Khai và Phong bị thực dân Pháp
tử hình thì Hồ cứ duy trì cái chuyện Khai là hôn thê với Phong và có con gái
với Phong. Nhờ có tờ hôn thú giữa Hồ và Minh Khai tìm được trong kho lưu trữ
của trung ương cộng sản Nga-xô sau khi chế độ Xô-viết ở Nga sụp đổ, mà Hồ bị
lật mặt nạ. Chỉ có Lữ Phương, nguyên thứ trưởng văn hóa bù nhìn do ngụy quyền
mafia cộng sản nặn ra, một “trí thức yêu nước” trốn ra bưng với mafia cộng sản,
cũng như các loại trí thức, theo định nghĩa và so sánh của Mao trạch Đông, là vẫn
thấy Hồ là “ông tiên”, là “hiền triết phương đông” mà thôi. Chẳng biết Lữ
Phương có được xem tấm hình “ông tiên” của Lữ Phương, trước ngày xuống địa
ngục, đã bị KGB chụp được, đang đi dạo trong phủ toàn quyền cũ với cô con gái
Tây lai của Hồ, tên Louis Daguière không, từ Pháp sang kia đấy, trong lúc cô
con của Hồ với Nguyễn thị Minh Khai vẫn phải đơn côi ở Hải-phòng?(!)
Dẫn chứng thứ hai là Lữ Phương tự “tấn phong” cho bác
sỹ Trần duy Hưng là “bí thư thành ủy Hà-nội”. Viết về Hồ mà còn lẫn lộn về
những nhân vật xung quanh Hồ thì quả là đại liều mạng như Chí Phèo vậy. Trần
duy Hưng là chủ tịch Hà-nội kiêm thường vụ thành ủy Hà-nội. Nhưng cả hai chức
vụ đều là “làm kiểng” cho thủ đoạn chính trị của ngụy quyền Hồ chí Minh, nghĩa
là mượn cái danh “bác sỹ” của Hưng để cân đối với bác sỹ Trần văn Lai, thứ
trưởng Hà-nội thời cụ Trần Trọng Kim. Gần như công việc chính yếu của Trần duy
Hưng – với tư cách chủ tịch Hà-nội – là đi tiệc tùng, hiếu hỉ. Và, ở những nơi
đó, Trần duy Hưng chỉ rình để gào lên “Hồ chủ tịch muôn năm” và “đảng Lao động
muôn năm”. Thực chất công việc của Trần duy Hưng là hô khẩu hiệu ca ngợi Hồ mà
thôi.
Lữ Phương có vẻ tự hào và nuối tiếc cái giai đoạn là
“trí thức yêu nước” và “thứ trưởng văn hóa của chính phủ bù nhìn” do ngụy quyền
Hồ chí Minh nặn ra ở trong bưng. Khổ quá, cái gọi là “trí thức yêu nước” đó là
do tập đoàn mafia cộng sản phong cho theo cung cách của các cụ ta xưa nói là
“xúi trẻ con ăn cứt gà sáp”, giống như kiểu “Việt kiều yêu nước” áo gấm về làng
vậy. Còn cái chức thứ trưởng mới thảm hại nữa. Chẳng biết Lữ Phương có được
phép biết rằng gần toàn bộ cái chính phủ bù nhìn đó đều được ra Hà-nội hết ăn
rồi lại đánh bài, đánh bóng bàn, phơi nắng ở khách sạn Hoàn Kiếm, Hà-nội, tọa
lạc chỗ ngã tư hai phố Phan Chu Trinh và Trần Hưng Đạo. Đủ mặt từ bộ trưởng tư
pháp Trương như Tảng, bộ trưởng y tế Dương quỳnh Hoa, bộ trưởng ngoại giao Trần
bửu Kiếm cũng như các vị Lâm văn Tết và bác sỹ Phùng văn Cung v.v… chứ lãnh đạo
cái con khỉ khô gì đâu. Riêng luật sư Nguyễn hữu Thọ được ưu ái hơn nên được ở
tòa vi-la tại phố Nguyễn Du, xưa kia là của nghệ sỹ cải lương Kim Chung, ngày
ngày dạo phố hoặc lên khu Quảng Bá để nghe huấn thị. Còn vợ chồng Trịnh đình
Thảo, ở một vi-la khiêm tốn hơn, gần hồ Thuyền Cương, ngày không mưa gió nắm
tay nhau ra ngồi ghế đá, phơi nắng, nghe gió thổi để ngậm ngùi nhớ đến cái lúc
được tự do có riêng một trang trại thuộc phần miền Nam Việt Nam, và được tự do
đặt tên con đường trong trang trại là “đại lộ Hồ chí Minh”. óc cơ hội và sự mù quáng chính trị đã
khiến sau tháng 4/75, cặp vợ chồng này bị đổ vỡ: bà ngả vào lòng một chú bé làm
việc tại Sở Bưu điện Sài-gòn, còn ông cũng đành ôm một cháu gái khác để tranh
thủ tự ban cho mình sự hưởng thụ hòng khỏa lấp cơn mơ tưởng mình là chính khứa
lỗi lạc của Việt Nam! Tiếc thay, như các cụ ta xưa đã nói “thả mồi bắt bóng” và
“trông gà hóa cuốc”!
Tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh là thợ lành nghề
trong sản xuất bánh vẽ, vừa vĩ đại màu mè vừa hấp dẫn với những người trung
hậu, thật thà cả tin. Chúng cũng là cao thủ của trò ảo thuật chữ nghĩa. Nhưng
các cụ ta xưa đã dạy rằng: “ăn lắm mất ngon, nói lắm hóa nhàm” và “tinh ma
chẳng qua lưới trời”. Cho nên, khi chúng từ chỗ đểu giả gọi những người tỵ nạn
xâm lược của cộng sản là: “đĩ điếm”, “ngụy”, “phản cách mạng” v.v… để sau đó
cho ra cụm từ “Việt kiều yêu nước” là cảnh “gay ông đập lưng ông” vậy. Bởi vì,
nếu những người vì chống cộng, thấy được không thể cùng chúng đội trời chung
nên phải ra đi sống đời lưu vong, nay được chính chúng thừa nhận là “yêu nước”,
thì quả rõ ràng là chúng không yêu nước. Nói một cách khác, chúng là đạo quân
thứ 5 của Nga-xô, chúng mang hình hài người Việt Nam chứ chúng không phải là
người Việt Nam. Qua việc đảng kỳ của chúng (nền đỏ với búa liềm vàng) cũng là
quốc kỳ của Nga-xô, đã bộc lộ rằng chúng là công dân búa liềm, nghĩa là một
hình thức che đậy cái sự thực chúng là quốc tịch Nga-xô và vì Nga-xô mà thôi.
Rút kinh nghiệm lịch sử của những kẻ xâm lược, đế quốc đỏ qua cái gọi là quốc
tế cộng sản để tuyển mộ nhân lực của các nước, kết hợp chúng thành đảng cộng sản,
cho nên mỗi đảng viên cộng sản là mỗi công dân Nga-xô. Và, đế quốc đỏ dùng lũ
công dân Nga-xô mang hình hài Việt để giúp việc thống trị người Việt, khiến
nhiều người Việt Nam, vì thiếu thông tin lại thêm thiếu xét đoán, phân tích nên
ngộ nhận chúng là người Việt Nam. Cần nhớ là từ Hồ cho đến bọn Trần Phú, Hà huy
Tập, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai v.v… đều có tên Nga, hoặc có bố nuôi
là Nga như Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Giáp văn Cương v.v…
Khoảng 1951, nghĩa là sau khi Trung cộng làm chủ lục địa,
tướng La quý Ba và đặc biệt đại tướng Trần Canh của Trung cộng qua giúp Hồ
trong cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950” và sự tái xuất của tổ chức công
dân búa liềm, dưới cái tên hiền lành là đảng Lao động Việt Nam, thì tập đoàn
mafia cộng sản Hồ chí Minh đã âm thầm làm đảo chính để vô hiệu hóa Quốc hội
Khóa 1 với thành phần của nhiều đảng phái, cá nhân không đảng phái và không
cộng sản; lật đổ Chính phủ Liên hiệp, chỉ để lại vài bộ mặt bù nhìn hữu danh vô
thực như Phan kế Toại, Bùi bằng Đoàn, Nguyễn văn Huyên v.v… làm lá chắn che đậy
sự đảo chính bất hợp pháp của Hồ, để từ đó ngụy quyền cộng sản ra đời cùng Hồ,
lèo lái đưa Việt Nam vào quỹ đạo thuộc địa của đế quốc đỏ và dùng nhân lực, tài
lực Việt Nam vào nước cờ bành trướng của đế quốc đỏ. Và, năm 1959 là năm ngụy
quyền Hồ chí Minh công bố hiến pháp mới, không qua trưng cầu dân ý, vì có nhiều
điều khoản trái với Hiến pháp 1946 và bộc lộ sự vi phạm quyền lợi lâu dài của
nhân dân và đất nước Việt Nam, càng chứng minh cái gọi là “chính quyền Hồ chí
Minh” thực chất là ngụy quyền quân phiệt, vì hầu hết các bộ trưởng của Hồ là từ
lò ngụy quân cộng sản mà ra, và cái ngụy quyền quân phiệt đó lúc nào cũng có
nhiệm vụ “bảo vệ Liên-xô” như Hồ luôn nhắc nhở, ngay cả di chúc trước khi chết
mà Hồ vẫn một lòng một dạ đi thăm Các-Mác và Lê-nin, chứ có đả động đến Tiền
nhân nào của lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam đâu.
Ngày 20/07/2004
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen